- Những áng thiên cổ hùng văn trong lịch sử dân tộc
- Những bài thơ về 14 vị anh hùng dân tộc tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam
- Hùng Vương (Đặng Minh Khiêm)
- Hai Bà Trưng dựng nền độc lập (Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái)
- Lý Nam Đế dựng nền độc lập (Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái)
- Ngô Quyền phá quân Nam Hán (Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái)
- Đinh Bộ Lĩnh hợp nhất quốc gia (Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái)
- Lê Hoàn phá quân Tống (Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái)
- Lý Thái Tổ (Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái)
- Lý Thường Kiệt bại Chiêm, phá Tống (Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái)
- Trần Nhân Tông (Đặng Minh Khiêm)
- Trần Hưng Đạo phá Mông Cổ (Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái)
- Lê Thái Tổ phá giặc Minh (Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái)
- Nguyễn Trãi - người trở lại (Đào Cảng)
- Vịnh ông Nguyễn Huệ Tây Sơn (Dương Bá Trạc)
- Hồ Chí Minh (Tố Hữu)
- Những bài thơ về lịch sử Việt Nam
- Câu ca dao về lịch sử Việt Nam
Dựng nước và giữ nước là một trong những chủ đề trọng tâm của văn học Việt Nam. Trong đó, những câu ca dao, bài thơ lịch sử đã mang đến cho độc giả một cách tìm hiểu lịch sử mới, dễ hiểu, dễ thuộc. Lời thơ ngắn gọn, súc tích, thể hiện rõ niềm tự hào sâu sắc về truyến thống hào hùng của dân tộc, ca ngợi những trang sử vẻ vang của đất nước. Sau đây, hãy cùng VOH điểm qua các câu ca dao, bài thơ lịch sử nổi bật.
Những áng thiên cổ hùng văn trong lịch sử dân tộc
Hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước, dân tộc ta có nhiều áng hùng văn thiên cổ - những bản tuyên ngôn độc lập của các thời kỳ khác nhau. Bên cạnh Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, ngày 2/9/1945, còn có bài thơ Nam Quốc Sơn Hà (1076) của Lý Thường Kiệt và Bình Ngô đại cáo (1428) của Nguyễn Trãi đã khẳng định mạnh mẽ quyền độc lập, tự chủ của dân tộc.
Nam Quốc Sơn Hà (Lý Thường Kiệt)
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch thơ:
Đất nước Đại Nam, Nam đế ngự,
Sách trời định phận rõ non sông.
Cớ sao giặc Bắc sang xâm phạm.
Bay hãy chờ coi chuốc bại vong.
(Trích: Ngô Linh Ngọc, Tổng tập văn học Việt Nam, tập I, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980)
Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi)
Thay trời hành hoá, hoàng thượng truyền rằng.
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cỏi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi.
Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.
Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim trả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa?
Nặng nề những nổi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông,
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.
Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cỏi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Sĩ khí đã hăng
Quân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt,
Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công.
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính lại còn chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.
Bởi thế:
Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
Đinh Mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực
Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ
Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi!
Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.
(Ngô Tất Tố dịch)
Xem thêm:
52 bài thơ về Bác Hồ - Vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Na
39 mẩu chuyện kể về Bác Hồ ngắn gọn, hay và ý nghĩa
10 câu chuyện ngắn kể về Bác Hồ với thiếu nhi đầy ý nghĩa
Những bài thơ về 14 vị anh hùng dân tộc tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam
Theo Công văn ngày 21/6/2013 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, danh sách 14 vị anh hùng tiêu biểu của dân tộc Việt Nam được xếp theo thứ tự thời gian gồm: Quốc tổ Hùng Vương, Hai Bà Trưng, Lý Nam Đế, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Lý Công Uẩn, Lý Thường Kiệt, Trần Nhân Tông, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ (Quang Trung), Hồ Chí Minh.
14 vị trên đáp ứng được một trong ba tiêu chí sau:
- Người khởi xướng, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống lại ách đô hộ ngoại xâm, giành độc lập dân tộc;
- Người đứng đầu một vương triều có đóng góp đặc biệt xuất sắc, lãnh đạo dân tộc giành được những thành tựu to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước;
- Nhà quân sự, chính trị, văn hoá lỗi lạc.
Dưới đây là những bài thơ lịch sử hay giới thiệu và ca ngợi công lao của các vị anh hùng dân tộc kể trên.
Hùng Vương (Đặng Minh Khiêm)
Vương hầu tướng tướng tổng xưng Hùng,
Thập bát truyền lai vị hiệu đồng.
Tuế lịch thiên dư chi phái viễn,
Nhị Trưng hoàn hữu tổ uy phong.
Dịch thơ:
Vương Hầu văn võ thảy là Hùng
Mười tám đời vua hiệu vẫn chung
Đời trải hơn nghìn, con cháu tiếp
Trưng Vương còn giữ nếp Tiên Rồng.
(Trích trong cuốn Thoát hiên nhịn sử)
Hai Bà Trưng dựng nền độc lập (Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái)
Đường ca lâu đã vắng lời,
Đến như Tô Định là người chí hung.
Bà Trưng quê ở Châu Phong,
Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên.
Chị em nặng một lời nguyền,
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân.
Ngàn Tây nổi áng phong trần,
Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên.
Hồng quần nhẹ bước chinh yên,
Đuổi ngay Tô Định dẹp tan biên thành.
Đô kỳ đóng cõi Mê Linh,
Lĩnh nam riêng một triều đình nước ta.
Ba thu gánh vác sơn hà,
Một là báo phục, hai là bá vương.
Uy thanh động đến Bắc phương.
Hán sai Mã Viện lên đường tiến công.
Hồ Tây đua sức vẫy vùng,
Nữ nhi chống với anh hùng được nao?
Cấm Khê đến lúc hiểm nghèo,
Chị em thất thế cũng liều với sông.
Phục Ba mới dựng cột đồng,
Ải quan truyền dấu biên công cõi ngoài.
Trưng Vương vắng mặt còn ai?
Đi về thay đổi mặc người Hán quan.
(Trích Hồi 04 - Nhà Hán đô hộ và Hai Bà Trưng (111 - 43 trước CN), Đại Nam quốc sử diễn ca)
Lý Nam Đế dựng nền độc lập (Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái)
Kể từ Ngô, Tấn lại đây,
Hai trăm mười bốn năm chầy cát phân.
Cỏ cây chan chứa bụi trần,
Thái bình mới có Lý Phần hưng vương.
Vốn xưa nhập sĩ nước Lương,
Binh qua gặp lúc phân nhương lại về.
Cứu dân đã quyết lời thề,
Văn thần, vũ tướng ứng kỳ đều ra,
Tiêu Tư nghe gió chạy xa,
Đông tây muôn dặm quan hà quét thanh.
Vạn Xuân mới đặt quốc danh,
Cải nguyên Thiên Đức, đô thành Long Biên.
Lịch đồ vừa mới kỷ niên,
Hưng vương khí tượng cũng nên một đời.
Quân Lương đâu đã đến ngoài,
Bá Tiên là tướng đeo bài chuyên chinh.
Cùng nhau mấy trận giao binh,
Thất cơ Tô Lịch, Gia Ninh đôi đường.
Thu quân vào ở Tân Xương,
Để cho Quang Phục chống Lương mặt ngoài.
Mới hay “nhật phụ mộc lai,”
Sấm văn trước đã an bài những khi.
(Trích Hồi 06 - Nhà Tiền Lý (544 - 603), Đại Nam quốc sử diễn ca)
Ngô Quyền phá quân Nam Hán (Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái)
Dương công xưa có rể hiền,
Đường Lâm hào hữu tên Quyền họ Ngô.
Vì thầy, quyết chí phục thù,
Nghĩa binh từ cõi Ái châu kéo vào.
Hán sai thái tử Hoằng Thao,
Đem quân ứng viện toan vào giúp công.
Bạch Đằng một trận giao phong,
Hoằng Thao lạc vía, Kiều Công nộp đầu.
Quân thân đã chính cương trù,
Giang sơn rầy có vương hầu chủ trương.
Về Loa Thành mới đăng quang,
Quan danh cải định, triều chương đặt bày.
(Trích Hồi 08 - Nhà Ngô (906 - 907), Đại Nam quốc sử diễn ca)
Đinh Bộ Lĩnh hợp nhất quốc gia (Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái)
Xây vần trong cuộc tang thương,
Trải bao phân loạn mới sang trị bình.
Có ông Bộ Lĩnh họ Đinh,
Con quan thử sử ở thành Hoa Lư.
Khác thường từ thuở còn thơ,
Rủ đoàn mục thụ mở cờ bông lau.
Dập dìu kẻ trước người sau,
Trần ai đã thấy vương hầu uy dung.
Một mai về với Trần công,
Hiệu xưng Vạn Thắng, anh hùng ai qua.
Bốn phương thu lại một nhà,
Mười hai sứ tướng đều là quét thanh.
(Trích Hồi 09 - Nhà Đinh và nhà Tiền Lê (967 - 1009), Đại Nam quốc sử diễn ca)
Lê Hoàn phá quân Tống (Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái)
Chợt nghe binh báo Nam Quan,
Cùng nhau phù lập Lê Hoàn làm vương.
Trước mành, vâng lệnh nàng Dương,
Trong cung đã thấy áo vàng đưa ra,
Trường Yên đổi mặt sơn hà,
Đại Hành trí lược thực là cũng ghê!
Vạc Đinh đã trở sang Lê,
Nàng Dương chăn gối cũng về hậu cung.
Nguy nga ngói bạc, cột đồng,
Cung đài trang sức buông lòng xa hoang,
Tự mình đã trái luân thường,
Lấy chi rủ mối, dựng giường, về sau.
(Trích Hồi 09 - Nhà Đinh và nhà Tiền Lê (967 - 1009), Đại Nam quốc sử diễn ca)
Lý Thái Tổ (Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái)
Bắc Giang trời mở thánh minh,
Lý Công tên Uẩn nhân tình đới suy.
Lê triều làm chức chỉ huy,
Lũ Đào Cam Mộc ứng kỳ phù lên.
Đầu năm cải hiệu Thuận Thiên,
Thăng Long mới đổi đặt tên kinh thành.
Định ra thuế lệ phân minh,
Túc xa, quản giáp quân danh cũng tường.
Hỗn đồng một mối phong cương,
Hai mươi bốn lộ các đường mới chia.
Cử long sấm dậy binh uy,
Diễn Châu gió động tinh kỳ thân chinh.
Biện loan gặp lúc hối minh,
Hương nguyền cảm cách, sóng kình cũng êm.
Bốn phương trong trị, ngoài nghiêm,
Chiêm Thành, Chân Lạp xa đem cung cầu.
Ngựa man sang tiến Bắc triều,
Tống hoàng ban thưởng quan bào thêm vinh.
Ví hay đạo học tinh minh,
Đế vương sự nghiệp nước mình ai hơn?
Có sao tin hoặc dị đoan,
Say vui đạo Phật lưu tiên cảnh chùa?
Để cho dân tục tranh đua,
Ni cô nối gót, tăng đồ chen vai.
Bởi vì sinh cửa Như Lai,
Tiêu sơn từ thuở anh hài mới ra.
Sóng tình chìm nổi ái hà,
Chín ngôi hoàng hậu, phép nhà cũng sai.
Tự mình đã dựng lệ giai,
Khiến nên con cái, thêm bài tương tranh.
(Trích Hồi 10 - Nhà Lý (1010 - 1225), Đại Nam quốc sử diễn ca)
Lý Thường Kiệt bại Chiêm, phá Tống (Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái)
Thân chinh xe ngựa trì khu,
Phá Sa động bắt man tù Nguỵ Phang.
Chiêm Thành nộp đất xin hàng,
Ba châu quy phụ một đường thanh di.
Tống binh xâm nhiễu biên thuỳ,
Tướng quân Thường Kiệt dựng cờ Bắc chinh.
Bên song Như Nguyệt trú dinh,
Giang sơn dường có thần linh hộ trì.
Miếu tiền phảng phất ngâm thi,
Như phân địa thế, như trì thiên binh.
Bấy giờ Tống mới hư kinh,
Giảng hoà lại trả mấy thành cố cương.
Lại còn hối hận một chương:
“Tham voi Giao Chỉ, mất vàng Quảng Nguyên”
Năm mươi năm lẻ lâu bền,
Vũ công văn đức rạng truyền sử xanh.
Thượng dương sao nỡ bạc tình,
Để bà Dương hậu một mình ngậm oan.
Kìa Lê Văn Thịnh mưu gian,
Thương chi quái hổ mà khoan lưới hình!
Phật từ như quả chứng minh,
Chuông chùa Diên Hựu đã thành phúc cai.
Cớ sao chi thứ nối đời,
Trừ quân lại thác vào người hoá duyên?
(Trích Hồi 10 - Nhà Lý (1010 - 1225), Đại Nam quốc sử diễn ca)
Trần Nhân Tông (Đặng Minh Khiêm)
Thế xuất kim tiên ứng vận sinh,
Đảm đương đại sự vũ công thành.
Trung dung tự thị thánh năng sự,
Giới hạnh tu tri khổ dụng tình.
(Theo Thoát Hiên vịnh sử thi tập)
Dịch thơ:
Ứng vận, kim tiên xuống cõi trần,
Đảm đương việc lớn, rực công huân.
“Trung dung”, bậc thánh tài gìn giữ,
Giới hạn nhọc lòng, khổ tấm thân.
(Đỗ Quang Liên dịch)
Trần Hưng Đạo phá Mông Cổ (Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái)
Trao truyền theo lối phép nhà,
Nhân Tông hùng lược lại là tài hơn,
Rợ Nguyên quen thói tham tàn,
Quân năm mươi vạn, những toan tranh hành,
Sắc sai Hưng Đạo tổng binh,
Với Trần Quang Khải các dinh tiến vào.
Chương Dương một trận phong đào,
Kìa ai cướp giáo, ra vào có công?
Hàm quan một trận ruổi rong,
Kìa ai bắt giặc, uy phong còn truyền?
Giặc Nguyên còn muốn báo đền,
Mượn đường hộ tống binh thuyền lại sang.
Xương bày trắng đất, máu màng đỏ sông.
Trần Hưng Đạo đã anh hùng,
Mà Trần Nhật Duật kể công cũng nhiều.
Hoài Văn tuổi trẻ trí cao,
Cờ đề sáu chữ quyết vào lập công.
Trần Bình Trọng cũng là trung,
Đành làm Nam quỷ, không lòng Bắc vương.
Khuyển ưng còn nghĩa đá vàng,
Yết Kiêu, Dã Tượng hai chàng cũng ghê!
Mà trong ngọc diệp kim chi,
Lũ Trần Ích Tắc sao đi đầu hàng?
Nhân khi biến cố vội vàng,
Kẻ trung người nịnh đôi dàng tỏ ra,
Trùng hưng đem lại sơn hà,
Đã hay thiên tướng cũng là tài sinh.
Nước nhà khi ấy thanh bình,
Truyền ngôi thái tử, lánh mình Ngoạ Vân.
(Trích Hồi 11 - Nhà Trần Thời kỳ Thịnh (1226 - 1340), Đại Nam quốc sử diễn ca)
Lê Thái Tổ phá giặc Minh (Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái)
Mới hay cơ tạo xoay vần,
Có khi bĩ cực đến tuần thái lai.
Thiếu chi hào kiệt trong đời,
Non xanh nước bạc có người kinh luân.
Lương Giang trời mở chân nhân,
Vua Lê Thái Tổ ứng tuần mới ra.
Lam Sơn khởi nghĩa từ nhà,
Phong trần lắm lúc kể đà gian nguy.
Lạc Xuyên đầu giết Mã Kỳ,
Nghệ, Thanh một giải thu về bản chương.
Chia quân kinh lược mọi đường,
Hai kinh đã định, bốn phương cũng bình.
Vương Thông bền giữ cô thành.
Viện binh hai đạo Bắc đình tiếp sang.
Trời Nam đã có chủ trương,
Mà cơ chế thắng miếu đường cũng tinh.
Chi Lăng các đạo phục binh,
Liễu Thăng, Mộc Thạnh liều mình nẻo xa.
Vương Thông thế túng cầu hoà,
Quyền phong Trần Cảo gọi là quốc vương.
Ngôi thiêng sao xứng tài thường.
Trần công trẫm sát để nhường long phi.
(Hồi 14 - Nhà hậu Lê, thời kỳ thống nhất (1410 - 1526), Đại Nam quốc sử diễn ca)
Nguyễn Trãi - người trở lại (Đào Cảng)
Buồn dâng xứ Bắc người quay lại
Chữ hiếu lồng trong nghĩa nước non
Thù cha nước mắt mờ quan ải
Nợ nước lòng đau xạm trời Nam
Đông Quan thành quách Ngô quân đóng
Cờ đen xú khí ngút trong ngoài
Người về như tiếng thầm - ngọn gió
Một vệt sáng loè - sao đổi ngôi
Gương hồ thôi sáng, chim thôi hót
Đàn treo bụi phủ, tơ nhện vương
Nhà nông bá ruộng cầm cung kiếm
Phòng văn kẻ sĩ biếng văn chương
Ruộng hoang đất mỡ ben mầm độc
Núi đồi trổ gươm cờ nghĩa bay
Trời cao muốn rộ mùa binh lửa
Ngô quân dinh luỹ cú kêu ngày
Như ngọn gió về không tung tích
Mà tựa gươm treo giữa quân thù
Áo vải, giày thô dàn thế chữ
Bút lông, chiến lược, sách bình Ngô
Thanh kiếm vua Lê, cây bút Nguyễn
Lam Sơn thác đổ một phen này
Nét chữ rồng bay tua tủa mác
Thơ reo, tên réo, triệu lòng say
Nợ nước thù cha thân chẳng tiếc
Vàng son một thuở có cần đâu
Lộc thưởng công cao dân được ruộng
Tiếng thơ vang vọng đến đời sau.
Vịnh ông Nguyễn Huệ Tây Sơn (Dương Bá Trạc)
Tay không gây dựng nổi cơ đồ,
Đế bá hoàng vương một sất phu.
Thuận Hoá bay thuyền xua tướng Trịnh,
Thăng Long phóng ngựa đạp quân Hồ.
Oai thần nín hết hơi gà Quảng,
Rượu tết châm đầy máu chó Ngô.
Nhân phẩm chớ đem thành bại luận,
Anh hùng đáng mặt sử Minh Đô.
Hồ Chí Minh (Tố Hữu)
Hồ Chí Minh
Người lính già
Đã quyết chiến hy sinh
Cho Việt Nam độc lập
Cho thế giới hoà bình!
Người đã sống năm mươi năm vũ bão
Vì nhân loại
Người quyết dâng xương máu
Vì giang sơn
Người quyết dứt gia đình!
Hồ Chí Minh
Người đã quyết
Mặc phong ba giá tuyết
Mặc gươm súng xiềng gông
Làm tên quân cảm tử đi tiên phong
Đánh trăm trận, thề trăm phen quyết thắng!
Bao thất bại dẫu xát lòng cay đắng
Hồn vẫn tươi vui, thơm ngát tình đời
Bước trường chinh dầu mỏi gối khan hơi
Tim gang thép vẫn bừng bừng lửa chiến
Cờ đã phất, phải gương cao quyết tiến!
Người xông lên
Và cả đoàn quân, thừa huyết khí thanh niên
Rập bước tiến bên người Cha anh dũng.
Tiếng Người thét
Mau lên gươm lắp súng!
Và cả đoàn quân
Đã bao nhiêu năm tháng trải phong trần
Mắt sáng quắc như gươm trần mã tấu
Vụt ào lên quyết hy sinh chiến đấu
Diệt cường quyền!
Ôi sức mạnh vô biên!
Hồ Chí Minh
Hỡi ngọn đuốc thiêng liêng
Trên đầu ta, ngọn cờ dân tộc
Trăm thế kỷ trong tên Người: Ái Quốc
Bạn muôn đời của thế giới đau thương!
Chúng tôi đây
Lớp con cháu trên đường
Gươm tuốt vỏ, súng cầm tay, xốc tới
Ngọn cờ đỏ sao vàng bay phấp phới
Nước non Hồng vang dội Tiến quân ca.
Hồ Chí Minh
Người trẻ mãi không già!
(26/8/1945)
(Nguồn: Tố Hữu, Từ ấy, NXB Văn học, 1959)
Xem thêm:
100 câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ về quê hương, đất nước, con người Việt Nam
47 câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ về lòng yêu nước, yêu quê hương
Thơ hiện đại Việt Nam - Tiếng lòng của người thi sĩ
Những bài thơ về lịch sử Việt Nam
Bằng ngòi bút sắc bén, các nhân vật anh hùng, các chiến sĩ yêu nước đã viết nên những bài thơ bất hủ về lịch sử dân tộc nhằm xây dựng lòng yêu nước, cho đến hôm nay vẫn vẹn nguyên giá trị tư tưởng, giáo dục.
Hịch xuất quân (Quang Trung - Nguyễn Huệ)
Ðánh cho để dài tóc
Ðánh cho để đen răng
Ðánh cho nó chích luân bất phản
Ðánh cho nó phiến giáp bất hoàn
Ðánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ.
Lịch sử nước ta (Hồ Chí Minh)
Dân ta phải biết sử ta,
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.
Kể năm hơn bốn ngàn năm,
Tổ tiên rực rỡ, anh em thuận hoà.
Hồng Bàng là tổ nước ta.
Nước ta lúc ấy gọi là Văn Lang.
Thiếu niên ta rất vẻ vang,
Trẻ con Phù Đổng tiếng vang muôn đời.
Tuổi tuy chưa đến chín mười,
Ra tay cứu nước dẹp loài vô lương.
An Dương Vương thế Hùng Vương,
Quốc danh Âu Lạc cầm quyền trị dân.
Triệu Đà là vị hiền quân,
Quốc danh Nam Việt trị dân năm đời.
Nước Tàu cậy thế đông người,
Kéo quân áp bức giống nòi Việt Nam.
Quân Tàu nhiều kẻ tham lam,
Dân ta há dễ chịu làm tôi ngươi?
Hai Bà Trưng có đại tài,
Phất cờ khởi nghĩa giết người tà gian,
Ra tay khôi phục giang san,
Tiếng thơm dài tạc đá vàng nước ta.
Tỉnh Thanh Hoá có một bà,
Tên là Triệu Ẩu tuổi vừa đôi mươi,
Tài năng dũng cảm hơn người,
Khởi binh cứu nước muôn đời lưu phương.
Phụ nữ ta chẳng tầm thường,
Đánh Đông, dẹp Bắc làm gương để đời,
Kể gần sáu trăm năm giời,
Ta không đoàn kết bị người tính thôn.
Anh hùng thay ông Lý Bôn,
Tài kiêm văn võ, sức hơn muôn người,
Đánh Tàu đuổi sạch ra ngoài.
Lập nên Triều Lý sáu mươi năm liền.
Vì Lý Phật Tử ngu hèn,
Để cho Tàu lại xâm quyền nước ta.
Thương dân cực khổ xót xa,
Ông Mai Hắc Đế đứng ra đánh Tàu,
Vì dân đoàn kết chưa sâu,
Cho nên thất bại trước sau mấy lần.
Ngô Quyền quê ở Đường Lâm,
Cứu dân ra khỏi cát lầm ngàn năm.
Đến hồi Thập nhị sứ quân,
Bốn phương loạn lạc, muôn dân cơ hàn.
Động Hoa Lư có Tiên Hoàng,
Nổi lên gây dựng triều đàng họ Đinh.
Ra tài kiến thiết kinh dinh,
Đến vua Phế Đế chỉ kinh hai đời.
Lê Đại Hành nối lên ngôi.
Đánh tan quân Tống, đuổi lui Xiêm Thành.
Vì con bạo ngược hoành hành,
Ra đời thì đã tan tành nghiệp vương.
Công Uẩn là kẻ phi thường,
Dựng lên nhà Lý cầm quyền nước ta.
Mở mang văn hoá nước nhà,
Đắp đê để giữ ruộng nhà cho dân.
Lý Thường Kiệt là hiền thần,
Đuổi quân nhà Tống, phá quân Xiêm Thành.
Tuổi già phỉ chí công danh,
Mà lòng yêu nước trung thành không phai.
Họ Lý truyền được chín đời,
Hai trăm mười sáu năm giời thì tan.
Nhà Trần thống trị giang san,
Trị yên trong nước, đánh tan địch ngoài,
Quân Nguyên binh giỏi tướng tài:
Đánh đâu được đấy, dông dài Á, Âu,
Tung hoành chiếm nửa Âu châu,
Chiếm Cao Ly, lấy nước Tàu bao la,
Lăm le muốn chiếm nước ta,
Năm mươi vạn lính vượt qua biên thuỳ,
Hải quân theo bể kéo đi,
Hai đường vây kín Bắc Kỳ như nen.
Dân ta nào có chịu hèn,
Đồng tâm, hợp lực mấy phen đuổi Tàu.
Ông Trần Hưng Đạo cầm đầu,
Dùng mưu du kích đánh Tàu tan hoang,
Mênh mông một giải Bạch Đằng,
Nghìn thu soi rạng giống dòng quang vinh,
Hai lần đại phá Nguyên binh,
Làm cho Tàu phải thất kinh rụng rời.
Quốc Toản là trẻ có tài,
Mới mười sáu tuổi ra oai trận tiền,
Mấy lần đánh thắng quân Nguyên,
Được phong làm tướng cầm quyền binh nhung.
Thật là một đấng anh hùng,
Trẻ con Nam Việt nên cùng noi theo.
Đời Trần văn giỏi võ nhiều,
Ngoài dân thịnh vượng, trong triều hiền minh.
Mười hai đời được hiển vinh,
Đến Trần Phế Đế nước mình suy vi.
Cha con nhà Hồ Quý Ly,
Giết vua tiếm vị một kỳ bảy niên.
Tình hình trong nước không yên,
Tàu qua xâm chiếm giữ quyền mấy lâu,
Bao nhiêu của cải trân châu,
Chúng vơ vét chở về Tàu sạch trơn.
Lê Lợi khởi nghĩa Lam Sơn,
Mặc dầu tướng ít binh đơn không nàn.
Mấy phen sông Nhị núi Lam,
Thanh gươm yên ngựa Bắc, Nam ngang tàng.
Kìa Tuý Động nọ Chi Lăng,
Đánh hai mươi vạn quân Minh tan tành.
Mười năm sự nghiệp hoàn thành,
Nước ta thoát khỏi cái vành nguy nan.
Vì dân hăng hái kết đoàn,
Nên khôi phục chóng giang san Lạc Hồng.
Vua hiền có Lê Thánh Tông,
Mở mang bờ cõi đã khôn lại lành.
Trăm năm truyền đến cung hoàng,
Mạc Đăng Dung đã hoành hành chiếm ngôi.
Bấy giờ trong nước lôi thôi,
Lê nam, Mạc bắc rạch đôi san hà,
Bảy mươi năm nạn can qua.
Cuối đời mười sáu Mạc đà suy vi.
Từ đời mười sáu trở đi,
Vua Lê, Chúa Trịnh chia vì khá lâu.
Nguyễn Nam, Trịnh Bắc đánh nhau,
Thấy dân cực khổ mà đau đớn lòng.
Dân gian có kẻ anh hùng,
Anh em Nguyễn Nhạc nổi vùng Tây Sơn,
Đóng đô ở đất Quy Nhơn,
Đánh tan Trịnh, Nguyễn, cứu dân đảo huyền.
Nhà Lê cũng bị mất quyền,
Ba trăm sáu chục năm truyền vị vương.
Nguyễn Huệ là kẻ phi thường,
Mấy lần đánh đuổi giặc Xiêm, giặc Tàu,
Ông đà chí cả mưu cao,
Dân ta lại biết cùng nhau một lòng.
Cho nên Tàu dẫu làm hung,
Dân ta vẫn giữ non sông nước nhà.
Tướng Tây Sơn có một bà,
Bùi là nguyên họ, tên là Thị Xuân,
Tay bà thống đốc ba quân,
Đánh hơn mấy trận, địch nhân liệt là.
Gia Long lại dấy can qua,
Bị Tây Sơn đuổi, chạy ra nước ngoài.
Tự mình đã chẳng có tài,
Nhờ Tây qua cứu, tính bài giải vây.
Nay ta mất nước thế này,
Cũng vì vua Nguyễn rước Tây vào nhà,
Khác gì cõng rắn cắn gà,
Rước voi dầy mả, thiệt là ngu si.
Từ năm Tân Hợi trở đi,
Tây đà gây chuyện thị phi với mình.
Vậy mà vua chúa triều đình,
Khư khư cứ tưởng là mình khôn ngoan.
Nay ta nước mất nhà tan
Cũng vì những lũ vua quan ngu hèn.
Năm Tự Đức thập nhất niên,
Nam Kỳ đã lọt dưới quyền giặc Tây.
Hăm lăm năm sau trận này,
Trung Kỳ cũng mất, Bắc Kỳ cũng tan,
Ngàn năm gấm vóc giang san,
Bị vua họ Nguyễn đem hàng cho Tây!
Tội kia càng đắp càng đầy,
Sự tình càng nghĩ càng cay đắng lòng.
Nước ta nhiều kẻ tôi trung,
Tấm lòng tiết nghĩa rạng cùng tuyết sương.
Hoàng Diệu với Nguyễn Tri Phương,
Cùng thành còn mất làm gương để đời.
Nước ta bị Pháp cướp rồi,
Ngọn cờ khởi nghĩa nhiều nơi lẫy lừng;
Trung Kỳ đảng Phan Đình Phùng
Ra tay đánh Pháp, vẫy vùng một phương.
Mấy năm ra sức Cần Vương,
Bọn ông Tán Thuật nổi đường Hưng Yên,
Giang san độc lập một miền,
Ông Hoàng Hoa Thám đất Yên tung hoành.
Anh em khố đỏ, khố xanh,
Mưu khởi nghĩa tại Hà thành năm xưa,
Tỉnh Thái Nguyên với Sầm Nưa,
Kế nhau khởi nghĩa rủi chưa được toàn.
Kìa Yên Bái, nọ Nghệ An
Hai lần khởi nghĩa tiếng vang hoàn cầu.
Nam Kỳ im lặng đã lâu,
Năm kia khởi nghĩa đương đầu với Tây.
Bắc Sơn đó, Đô Lương đây!
Kéo cờ khởi nghĩa, đánh Tây bạo tàn.
Xét trong lịch sử Việt Nam,
Dân ta vốn cũng vẻ vang anh hùng.
Nhiều phen đánh bắc dẹp đông,
Oanh oanh liệt liệt con Rồng cháu Tiên.
Ngày nay đến nỗi nghèo hèn,
Vì ta chỉ biết lo yên một mình.
Để người đè nén, xem khinh,
Để người bóc lột ra tình tôi ngươi!
Bây giờ Pháp mất nước rồi,
Không đủ sức, không đủ người trị ta.
Giặc Nhật Bản thì mới qua,
Cái nền thống trị chưa ra mối mành.
Lại cùng Tàu, Mỹ, Hà, Anh,
Khắp nơi có cuộc chiến tranh rầy rà.
Ấy là nhịp tốt cho ta,
Nổi lên khôi phục nước nhà tổ tông.
Người chúng ít, người mình đông
Dân ta chỉ cốt đồng lòng là nên.
Hỡi ai con cháu Rồng Tiên!
Mau mau đoàn kết vững bền cùng nhau.
Bất kỳ nam nữ, nghèo giàu,
Bất kỳ già trẻ cùng nhau kết đoàn.
Người giúp sức, kẻ giúp tiền,
Cùng nhau giành lấy chủ quyền của ta.
Trên vì nước, dưới vì nhà,
Ấy là sự nghiệp, ấy là công danh.
Chúng ta có hội Việt Minh
Đủ tài lãnh đạo chúng mình đấu tranh
Mai sau sự nghiệp hoàn thành
Rõ tên Nam Việt, rạng danh Lạc Hồng
Dân ta xin nhớ chữ đồng:
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh!
Những năm quan trọng:
Trước Tây lịch
- 2879 - Hồng Bàng
- 111 - Tàu lấy nước ra lần đầu
Sau Tây lịch
40 - Hai Bà Trưng đánh Tàu
248 - Bà Triệu ẩu khởi nghĩa
544 - Vua Lý đánh Tàu
603 - Tàu lấy nước ta
939 - Vua Ngô khởi nghĩa
968 - Đời vua Đinh (12 năm)
981 - Đời vua Tiền Lê (29 năm)
1010 - Đời vua Hậu Lý (215 năm)
1073 - Lý Thường Kiệt đánh Tàu
1225 - Đời vua Trần (175 năm)
1283 - Trần Hưng Đạo đánh Tàu
1407 - Tàu lấy nước ta
1427 - Vua Lê khởi nghĩa
1543 - Đời vua Hậu Lê (360 năm)
1545 - Vua Lê Chúa Trịnh
1771 - Đời vua Tây Sơn (24 năm)
1789 - Vua Nguyễn Huệ đánh Tàu
1794 - Gia Long thông với Tây
1847 - Tây bắt đầu đánh nước ta
1862 - Vua nhà Nguyễn bắt đầu hàng Tây
1889 - Ông Đề Thám khởi nghĩa
1893 - Ông Phan Đình Phùng khởi nghĩa
1916 - Trung Kỳ khởi nghĩa
1917 - Thái Nguyên, Sầm Nưa khởi nghĩa
1930 - Yên Bái, Nghệ An khởi nghĩa
1940 - Bắc Sơn và Đô Lương khởi nghĩa
1941 - Nam Kỳ khởi nghĩa
1945 - Việt Nam độc lập
Người đi tìm hình của nước (Chế Lan Viên)
Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra đi
Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác
Khi bờ bãi dần lui làng xóm khuất
Bốn phía nhìn không một bóng hàng tre
Đêm xa nước đầu tiên, ai nỡ ngủ
Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương
Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở
Xa nước rồi, càng hiểu nước đau thương
Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp
Giấc mơ con đè nát cuộc đời con
Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp
Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn
Trăm cơn mơ không chống nổi một đêm dày
Ta lại mặc cho mưa tuôn và gió thổi
Lòng ta thành con rối
Cho cuộc đời giật dây
Quanh hồ Gươm không ai bàn chuyện vua Lê
Lòng ta đã thành rêu phong chuyện cũ
Hiểu sao hết những tấm lòng lãnh tụ
Tìm đường đi cho dân tộc theo đi
Hiểu sao hết “Người đi tìm hình của Nước”
Không phải hình một bài thơ đá tạc nên người
Một góc quê hương nửa đời quen thuộc
Hay một đấng vô hình sương khói xa xôi
Mà hình đất nước hoặc còn hoặc mất
Sắc vàng nghìn xưa, sắc đỏ tương lai
Thế đi đứng của toàn dân tộc
Một cách vinh hoa cho hai mươi lăm triệu con người
Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba Lê
Một viên gạch hồng, Bác chống lại cả một mùa băng giá
Và sương mù thành Luân Đôn, ngươi có nhớ
Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya?
Đời bồi tàu lênh đênh theo sóng bể
Người đi hỏi khắp bóng cờ châu Mỹ, châu Phi
Những đất tự do, những trời nô lệ
Những con đường cách mạng đang tìm đi
Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước
Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà
Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc
Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa
Ngày mai dân ta sẽ sống sao đây?
Sông Hồng chảy về đâu? Và lịch sử?
Bao giờ dải Trường Sơn bừng giấc ngủ
Cánh tay thần Phù Đổng sẽ vươn mây?
Rồi cờ sẽ ra sao? Tiếng hát sẽ ra sao?
Nụ cười sẽ ra sao?
Ơi, độc lập!
Xanh biết mấy là trời xanh Tổ quốc
Khi tự do về chói ở trên đầu
Kìa mặt trời Nga bừng chói ở phương Đông
Cây cay đắng đã ra mùa quả ngọt
Người cay đắng đã chia phần hạnh phúc
Sao vàng bay theo liềm búa công nông
Luận cương đến Bác Hồ. Và Người đã khóc
Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin
Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp
Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin
Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc
“Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!”
Hình của Đảng lồng trong hình của Nước
Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười
Bác thấy:
dân ta bưng bát cơm mồ hôi nước mắt
Ruộng theo trâu về lại với người cày
Mỏ thiếc, hầm than, rừng vàng, bể bạc
Không còn người bỏ xác bên đường ray
Giặc nước đuổi xong rồi. Trời xanh thành tiếng hát
Điện theo trăng vào phòng ngủ công nhân
Những kẻ quê mùa đã thành trí thức
Tăm tối cần lao nay hoá những anh hùng
Nước Việt Nam nghìn năm Đinh Lý Trần Lê
Thành nước Việt nhân dân trong mát suối
Mái rạ nghìn năm hồng thay sắc ngói
Những đời thường cũng có bóng hoa che
Ôi! Đường đến với Lênin là đường về Tổ quốc...
Tuyết Mat-xcơ-va sáng ấy lạnh trăm lần
Trong tuyết trắng như đọng nhiều nước mắt
Lênin mất rồi. Nhưng Bác chẳng dừng chân
Luận cương của Lênin theo Người về quê Việt
Biên giới còn xa. Nhưng Bác thấy đã đến rồi
Kìa, bóng Bác đang hôn lên hòn đất
Lắng nghe trong màu hồng, hình đất nước phôi thai
(1960)
Bạch Đằng giang (Trần Đức Phổ)
Giặc Hán tham tàn ảo vọng ngông
Hoằng Thao tưởng dễ diệt dân Hồng
Đem tài trí mọn treo đầu đẳng
Bạt vía mạng hèn bỏ đáy sông
Thuở trước Ngô Quyền vung kiếm thép
Ngày sau Quốc Tuấn trỏ gươm đồng
Lừng danh đất Việt trang hùng sử
Sóng vỗ Bạch Đằng sáng cõi đông!
Một chiều hè lịch sử (Hoàng Vượng)
Đêm hè trăng gió mát,
Ngồi trên chõng tre êm,
Cha kể chuyện Điện Biên:
Bộ đội mình chiến thắng,
Lũ Tây bị bắt sống,
Ta giải đi từng đàn,
Tướng Đờ Cát xin hàng,
Bốt đồn đều san phẳng.
Cờ quyết chiến quyết thắng,
Tung bay trên nóc hầm.
Chiều mùng bảy tháng năm,
Một chiều hè lịch sử.
(Bài thơ sử dụng trong SGK Tập đọc vỡ lòng giai đoạn 1976-1979 (không đề tên tác giả); Tiếng Việt 2 giai đoạn 1990-2003 (với tên tác giả Hoàng Vượng, chưa rõ là ai)).
Bài thơ quê hương (Nguyễn Bính)
Trải nghìn dặm trời mây bạn tới.
Thăm quê tôi, tôi rất đỗi vui mừng!
Bạn nán lại cùng tôi thêm buổi nữa.
Để tôi xin kể nốt chuyện quê hương.
...Quê hương tôi có cây bầu cây nhị
Tiếng “đàn kêu tích tịch tình tang...”
Có cô Tấm náu mình trong quả thị,
Có người em may túi đúng ba gang.
Quê hương tôi có ca dao tục ngữ,
Ông trăng tròn thường xuống mọi nhà chơi.
Một đĩa muối cũng mặn tình chồng vợ,
Một dây trầu cũng nhắc chuyện lứa đôi.
Con chim nhỏ cũng đau hồn nước mất
“Cuốc cuốc” kêu rỏ máu những đêm vàng
Chân ngựa đá cũng dính bùn trận mạc.
Theo người đi cứu nước chống xâm lăng.
Quê hương tôi có bà Trưng, bà Triệu
Cưỡi đầu voi, dấy nghĩa, trả thù chung.
Ông Lê Lợi đã trường kỳ kháng chiến,
Hưng Đạo vương đã mở hội Diên Hồng.
Quê hương tôi có múa xoè, hát đúm,
Có hội xuân liên tiếp những đêm chèo.
Có Nguyễn Trãi, có “Bình Ngô đại cáo”.
Có Nguyễn Du và có một “Truyện Kiều”.
Quê hương tôi có Trường Sơn một dải,
Có Hồng Hà lại có Cửu Long Giang
Có Hà Nội có hồ Tây, hồ Kiếm.
Chợ Đồng Xuân bày đủ mặt hàng.
Quê hương tôi có sầu riêng, măng cụt
Lòng bưởi đào, lòng gấc đỏ như son.
Có gạo tám xoan thổi nồi đồng điếu,
Cam xã Đoài ai bóc cũng thơm ngon.
Cánh đồng nào cũng chôn vàng giấu bạc,
Bờ biển nào cũng chói ngọc ngời châu.
Có thanh quế ngửi qua là khỏi bệnh,
Có cây lim đóng cả một thân tầu.
Quê hương tôi có những người con gái
“Một ngày hai bữa cơm đèn...”
Cách sông cái cũng bắc cầu dải yếm,
Cho chàng sang đính ước chuyện nhân duyên.
Trong bụng mẹ đã từng mê tiếng hát;
Nên quê tôi ai cũng biết làm thơ.
Những trẻ nhỏ nằm nôi hay đặt võng,
Sớm hay chiều, đều mượn cánh cò đưa.
Khi có giặc những tre làng khắp nước,
Đều xả thân làm ngọn mác, mũi chông,
Những trai gái thôn Đông, xóm Bắc
Thoắt vươn vai thành những anh hùng...
Quê tôi đó - bạn ơi! - là thế đó.
Mà nghìn năm rặt những tiếng kêu thương
Sung sướng làm sao! Bỗng một ngày: có Đảng
Có Bác Hồ, làm sống lại quê hương.
Đánh Nhật, đuổi Tây cứu dân, dựng nước
Hai mươi năm kể biết mấy công trình!
Và từ đây, núi sông và cuộc sống.
Và quê hương mới thực sự của minh.
Cuộc đời mới con người cũng mới,
Khắp bốn phương lộng lẫy ánh sao cờ,
“Đoàn quân Việt Nam đi... chung lòng cứu quốc...”
Đầu ngẩng cao từ cách mạng mùa thu.
Những xiềng xích nghìn năm đều bẻ gãy.
Những bài ca điệu múa lại vui tươi.
Những trận khóc đêm dài không có nữa.
Thành thị nông thôn rộn rã tiếng cười.
Trong lũy tre xanh vui mùa hợp tác,
Mái ngói nhô lên như những nụ hoa hồng.
Chung ruộng, chung trâu, chung lòng, chung sức
Chung con đường gặt lấy ấm no chung.
Trong xưởng máy tưng bừng như đám hội.
Những chủ nhân là chính những công nhân.
Tiếng máy reo chen tiếng cười tiếng hát,
Chẳng còn đâu tiếng chủ thét, cai gầm!
Những nhà thơ được tự do ca ngợi,
Quê hương. Tổ quốc, con người...
Và đời sống khỏi túng, nghèo, đói, khổ.
Khỏi bị ai khinh rẻ, dập vùi!
Đời trước thường mơ chuyện tiên, chuyện Phật,
Truyện thiên đường trong những cõi hư vô...
Đời nay dựng thiên đường trên mặt đất,
Dựng mùa xuân trong tất cả bốn mùa.
Khi con người được tự do giải phóng.
Đất rộng hơn mà trời cũng xanh hơn.
Quả trên cành cũng thêm ngon, thêm ngọt,
Hoa trong vườn cũng thêm sắc, thêm hương.
Và ý nghĩa những ca dao, tục ngữ
Ngày càng thêm thắm thiết, ngọt ngào.
Và “Truyện Kiều” mới có chân giá trị,
Và Nguyễn Du mới thành đại thi hào.
Thửa ruộng cũ cấy thêm mùa lúa mới,
Khung trời quê mọc những nóc lò cao.
Dây “cao thế” đã chăng dài khắp nẻo,
(Xóm làng tôi điện sẽ át trăng sao).
Những gỗ tốt đã dựng câu lạc bộ,
Gạo tám xoan thơm bếp lửa nhân dân.
Những cô Tấm tự tay xây hạnh phúc
Chẳng phải gian nan hoá kiếp mấy lần.
Và lớp lớp những anh hùng xuất hiện.
Sức thanh niên: sức Phù Đổng là đây!
Đẩy biển lùi ra, ngăn sông đứng lại,
Khẩu súng trường cũng hạ nổi máy bay.
Hội Diên Hồng thôn xã nào cũng mở,
Chuyện “kháng chiến trường kỳ” ai cũng nhớ nhập tâm.
“Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”
Câu ấy giờ đây đã đúng cả trăm phần.
Đảng cùng dân đã viết thêm lịch sử,
Lửa Điện Biên sáng dậy cả trăm năm.
Lửa Ấp Bắc, Chu Lai cũng bừng rực rỡ,
Lửa chiến công đang chói lọi miền Nam.
Khi có Đảng, có Bác Hồ lãnh đạo;
Có truyền thống cha ông để lại tự bao đời.
Thì đánh Mỹ nhất định là phải thắng
Chuyện ấy, quê tôi, thành chuyện dĩ nhiên rồi.
***
Câu chuyện quê tôi, sơ sài mấy nét.
Bạn trở về xin kể mọi người hay.
Riêng phần tôi có thơ này tặng bạn,
Tặng quê mình, nhân dịp tết năm nay.
Xem thêm:
25 bài thơ về Đảng sâu sắc, tràn đầy tình yêu quê hương đất nước
Hào khí Đông A: Tinh thần bất khuất chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta
775 câu thành ngữ, tục ngữ Việt Nam dạy bạn những bài học đắt giá trong cuộc sống
Câu ca dao về lịch sử Việt Nam
Trong văn học dân gian Việt Nam có một số câu ca dao được gọi là "ca dao lịch sử", phản ánh thái độ của quần chúng đối với các nhân vật thuộc giai cấp thống trị, các sự kiện hay những biến đổi trong xã hội. Sau đây, hãy cùng chúng tôi điểm qua những câu ca dao lịch sử hay, theo sách Tục Ngữ, Ca Dao, Dân Ca Việt Nam của tác giả Vũ Ngọc Phan.
- Trứng rồng lại nở ra rồng,
Liu điu lại nở ra dòng liu điu. - Núi cao, sông hãy còn dài,
Năm năm báo oán, đời đời đánh ghen. - Ru con, con ngủ cho lành,
Cho mẹ gánh nước, rửa bành con voi.
Muốn coi lên núi mà coi,
Coi bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng.
Túi gấm cho lẫn túi hồng,
Têm trầu cánh kiếm cho chồng đi quân. - Đánh giặc thì đánh giữa sông,
Chớ đánh trong cạn, phải chông mà chìm. - Đời vua Thái Tổ, Thái Tông,
Con bế, con dắt, con bồng, con mang.
Bò đen húc lẫn bò vàng,
Hai con húc chắc, đâm quàng xuống sông.
Thằng bé chạy về bảo ông:
“Bò đen ta ngã xuống sông mất rồi!". - Thùng thùng trống đánh quân sang,
Chợ Già trước mặt, quán Nam bên đàng.
Qua Chiêng thì rẽ về Giàng,
Qua quán Đông Thổ vào làng Đình Hương
Anh đi theo chúa Tây Sơn,
Em về cày cuốc mà thương mẹ già. - Đô đốc, tam thiên đô đốc;
Chỉ huy, bát vạn chỉ huy;
Trung úy, vệ úy chẳng kể làm chi;
Cai đội, phó đội, lấy tầu mà chở.
Mười quan thì đặng tước hầu,
Năm quan tước bá, ai hầu kém ai! - Phá đền rồi lại làm đền,
Nào ai cướp nước tranh quyền chi ai?
Rồng chầu ngoài Huế, ngựa tế Đồng Nai,
Nước sông trong sao lại chảy hoài!
Thương người xa xứ, lạc loài tới đây… - Gáo vàng đem múc giếng Tây,
Khôn ngoan cho lắm, tớ thầy người ta! - Hoàng triều Bảo Đại trị ngôi,
Bốn năm chưa trót, chúng tôi khố trần,
Năm Mão thì lụt bảy lần,
Bước sang năm Tỵ dần dần lụt to.
Hai năm thì hỏng bốn mùa
Lấy gì cơm áo mà no mà lành. - Một nhà hai chủ không hòa,
Hai vua một nước ắt là không yên.
Ông cha ta có câu:
Con người có tổ, có tông
Như cây có cội như sông có nguồn.
Tiếp nối truyền thống, đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc, mỗi con cháu Lạc Hồng phải có trách nhiệm tìm hiểu về cội nguồn, lịch sử nước nhà. Qua đó, giữ gìn, phát huy, giáo dục và khơi dậy lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc cho thế hệ mai sau.
Đừng quên cập nhật liên tục những bài viết mới nhất, hấp dẫn nhất tại VOH Sống đẹp.