Giá lúa gạo trong nước
Giá lúa gạo ngày 12/1 tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long tăng trở lại vs với gạo nguyên liệu.
Tại Tiền Giang, giá gạo nguyên liệu OM 18, Đài thơm 8 ở mức 14.700 – 14.900 đồng/kg, giảm 50 đồng/kg; gạo nguyên liệu OM 5451 dao động quanh mức 14.300 - 14.500 đồng/kg, giảm 100 đồng/kg; ST 24 ở mức 18.500 – 19.000 đồng/kg, giảm 500 đồng/kg.
Tại Đồng Tháp, giá gạo các loại cũng quay đầu giảm. Theo đó, gạo thơm ở mức 14.00 – 14.500 đồng/kg, giảm 200 đồng/kg; thơm đẹp 14.500 – 14.700 đồng/kg, giảm 200 đồng/kg; gạo OM 5451 14.300 – 14.500 đồng/kg, giảm 100 đồng/kg; IR 504 ở mức 13.000 – 13.100 đồng/kg, giảm 200 đồng/kg; gạo ST 24 giảm 500 đồng/kg xuống còn 18.200 – 18.700 đồng/kg; ST 21 giảm 300 đồng/kg xuống còn 17.500 - 17.800 đồng/kg.
Với mặt hàng lúa, theo cập nhật của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh An Giang, giá lúa IR 504 ở mức 8.900 – 9.100 đồng/kg; lúa Đài thơm 8 duy trì quanh mốc 9.600 - 9.800 đồng/kg; OM 18 ở mức 9.600 - 9.800 đồng/kg; OM 5451 ở mức 9.500 - 9.700 đồng/kg; Nàng Hoa 9 duy trì ổn định ở mức 9.500 - 9.600 đồng/kg; lúa OM 380 dao động quanh mốc 8.600 - 8.800 đồng/kg.
Tại các kho xuất khẩu, giá gạo không có biến động. Theo đó, giá gạo nguyên liệu IR 504 Việt duy trì ở mức 13.050 - 13.150 đồng/kg; gạo nguyên liệu dao động ở mức 12.900 - 13.000 đồng/kg; gạo nguyên liệu Sóc Trăng ở mức 12.250 - 12.350 đồng/kg; gạo nguyên liệu OM 5451 ở mức 13.700 - 13.800 đồng/kg; gạo nguyên liệu OM 18, Đài thơm 8 ở mức 14.050 - 14.150 đồng/kg.
Giá gạo tại chợ Thị Nghè
Giá gạo |
|
Giá bán tại chợ Thị Nghè (đồng) |
Tăng (+), giảm (-) so với hôm qua |
- ST25 –ruộng tôm |
kg |
28.000 |
|
- Gạo nàng thơm |
kg |
23.000 |
|
- Gạo ST24 |
kg |
27.000 |
|
- Gạo Lài Miên |
kg |
24.000 |
|
-Gạo Campuchia |
kg |
23.000 |
|
-Gạo Đài Loan sữa |
kg |
25.000 |
|
-Gạo Lài sữa |
kg |
22.000 |
|
-Gạo Tài nguyên Chợ Đào |
kg |
24.000 |
|
-Gạo Nàng Hoa |
kg |
22.000 |
|
-Gạo Đài Loan đặc biệt |
kg |
22.000 |
|
-Gạo Thơm Lài GC |
kg |
22.000 |
|
-Gạo Thơm Lài |
kg |
20.500 |
|
-Gạo Hương Lài |
kg |
22.000 |
|
-Gạo Tài Nguyên |
kg |
22.000 |
- |
-Gạo Thơm Mỹ |
kg |
22.000 |
|
-Gạo Thơm Thái |
kg |
20.000 |
|
- Nếp ngỗng |
kg |
20.000 |
- |
-Nếp Bắc |
kg |
30.000 |
|
-Nếp sáp |
kg |
25.000 |
|
-Gạo lứt Huyết Rồng |
kg |
26.000 |
|
-Gạo khô |
kg |
18.500 |
|
Giá gạo tại siêu thị
Giá gạo tại hệ thống Co.op
Gạo Lài Sữa Đồng Việt 5kg, giá bán 101.000đ; Gạo Lài Hương Đồng Việt, 5kg, giá bán 115.000 đ; Gạo thơm ST25 Thượng hạng Đồng Việt 194.500 đồng; Gạo thơm ST25 Lúa Tôm Đồng Việt 199.900 đ
Gạo Thơm ST 25 Vua Gạo 5kg, giá bán 200.800đ; Gạo thơm làng ta Vua Gạo 5kg 125.600 đ; Gạo thơm đậm đà Vua Gạo 5kg, giá bán 158.500đ; Gạo thơm phù sau Vua Gạo 5kg giảm còn 134.5000đ; Gạo Louis gold 5kg, giá bán 126.000đ;
Gạo than tím Xuân Hồng 1kg, giá bán 45.400đ; Gạo Tài Nguyên Xuân Hồng 5kg, giá bán 142.500đ; Gạo thơm Jasmine Xuân Hồng 5kg, giá bán 124.500đ; Gạo thơm lài Xuân hồng 5kg, giá bán 128.500đ; Gạo nàng thơm Xuân Hồng 5kg, giá bán 136.500đ;
Gạo thơm ST24 Coop Finest 2kg, giá bán 55.500 đồng; Gạo thơm ST24 Coop Finest 5kg, giá bán 135.000 đồng; Gạo thơm ST 25 Coop Finest 7kg, giá bán 197.000đ;Gạo ngon Cỏ May túi 5kg, giá bán 106.000 đồng; Gạo Hạt Ngọc Trời Tiên Nữ 5kg, giá bán 149.000 đ; Gạo thơm Hạt Ngọc Trời Thiên Long 5kg, giá bán 117.200 đ.
Tại hệ thống Satra
Gạo Lài Sữa Đồng Việt 5kg, giá bán 116.000đ; Gạo Lài Hương Đồng Việt, 5kg, giá bán 125.000 đ; Gạo thơm ST25 Thượng hạng Đồng Việt 230.000 đồng; Gạo thơm ST25 Lúa Tôm Đồng Việt 235.000 đ
Giá gạo tại Bách Hóa Xanh
Gạo Lài Sữa Đồng Việt 5kg, giá bán 115.000đ; Gạo Lài Hương Đồng Việt, 5kg, giá bán 120.000 đ; Gạo thơm ST25 Thượng hạng Đồng Việt 185.000 đồng, giảm còn 129.000đ.
Gạo thơm Vua Gạo làng ta túi 5kg 125.000 đ, giảm 25.000 đ; Gạo thơm Vua Gạo ST25, 5kg, giá bán 140.000đ, giảm 28.000đ; Gạo thơm Vua Gạo ST25 Lúa Tôm 5kg, giá bán 135.000đ, giảm 27.000đ; Gạo thơm Vua Gạo đậm đà 5kg 130.000đ;giảm 26.000đ
Gạo thơm Aan ST25 5kg, giá bán 135.000đ, giảm 27.000đ; Gạo thơm AAn ST24 5kg 160.000đ, giảm 32.000đ; Gạo thơm AAn ST21 5kg, 140.000đ, giảm 28.000đ.
Tình hình xuất khẩu gạo và giá thế giới
Trên thị trường xuất khẩu, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam tiếp tục giảm với gạo 25% tấm. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), hiện giá gạo 25% tấm ở mức 624 USD/tấn, giảm 1 USD/tấn, trong khi đó gạo 5% tấm giữ ổn định ở mức 653 USD/tấn.
Trái ngược với đà giảm của gạo Việt Nam, giá gạo Thái Lan và Pakistan hôm nay đồng loạt tăng từ 5 – 15 USD/tấn. Cụ thể, gạo 5% tấm ở mức 6345 USD/tấn, tăng 6 USD/tấn; gạo 100% tấm tăng 6 USD/tấn lên mức 486 USD/tấn.
Gạo 5% tấm của Pakistan tăng mạnh 15 USD/tấn lên mức 605 USD/tấn; gạo 25% tấm ở mức 558 USD/tấn, tăng 13 USD/tấn; gạo 100% tấm ở mức 467 USD/tấn, tăng 5 USD/tấn.
Nông dân ở Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam có thể bắt đầu thu hoạch vụ mùa mới trong tháng này, giảm bớt một số lo ngại về nguồn cung. Vụ thu hoạch đông xuân thường mang lại vụ mùa lớn nhất cả nước.
Thị trường gạo dự kiến sẽ tiếp tục thắt chặt vào đầu năm 2024 do lệnh hạn chế xuất khẩu đang diễn ra của Ấn Độ. Nhu cầu vẫn tăng trong dịp lễ Tết. Những yếu tố này sẽ tạo động lực cho giá gạo tăng cao hơn nữa.
Xuất/nhập khẩu gạo thế giới trong năm 2024 ước đạt 52,1 triệu tấn (gạo xay xát), giảm 710.000 tấn so với mức dự báo trong tháng trước và giảm 270.000 tấn so với năm 2023.
Xuất khẩu gạo năm 2024 được dự báo giảm tại Ấn Độ nhưng tăng tại Argentina, Paraguay và Thái Lan (USDA).
Ông Peter Clubb, nhà phân tích thị trường hàng hóa tại Hội đồng ngũ cốc quốc tế ở London, nhận định: “Chúng tôi biết thị trường gạo sẽ vẫn thắt chặt trong tương lai gần, phần lớn là do lệnh cấm xuất khẩu của Ấn Độ. Lễ hội Eid sẽ bắt đầu vào tháng 4. Khoảng thời gian trước lễ Eid, xu hướng tiêu thụ gạo sẽ tăng lên ở các thị trường nhiều người theo đạo Hồi giáo ở châu Á và châu Phi”.
Nhà xuất khẩu hàng đầu Ấn Độ dự kiến sẽ duy trì các hạn chế xuất khẩu gạo cho đến ít nhất là cuộc tổng tuyển cử diễn ra vào tháng 4 hoặc tháng 5. Theo đó, Thủ tướng Narendra Modi tìm cách kiềm chế giá nội địa trước khi cử tri đi bỏ phiếu. Sự khởi đầu của El Nino và tác động tiềm tàng của hiện tượng thời tiết này đối với các khu vực trồng lúa chính đã làm tăng thêm mối lo ngại về nguồn cung.