Nghe bài viết:
Hiệu ứng từ Việt - Đức
Ông và nhóm của mình đã làm được điều ngoài sức tưởng tượng đó. Nhờ có Đài Hoa Sen, truyền hình trực tiếp suốt 48 giờ đi khắp các nước đã giúp tên tuổi GS.TS Trần Đông A – nguyên Phó giám đốc bệnh viện Nhi đồng 2 - vượt khỏi biên giới VN ghi điểm trên diễn đàn y khoa quốc tế lúc bấy giờ. Đây cũng chính là bệ phóng giúp ông tiếp cận với thành quả mới nhất của y học - đó là lĩnh vực ghép tạng nhi khoa. Kỹ thuật điều trị mà cả đời ông luôn nung nấu được áp dụng ở VN vì ở bệnh viện của ông, trẻ teo đường mật bẩm sinh rất nhiều mà với trình độ y khoa lúc bấy giờ vô phương cứu chữa.
Giáo sư Đông A nhớ lại: "Tôi được mời báo cáo ở 5 thành phố của Nhật, kế đó là tham dự ở Hungari một hội nghị quốc tế về phẫu thuật nhi có rất nhiều nước tham gia, đặc biệt có Mỹ. Cũng tại đó, tôi gặp được giáo sư Bỉ đầu ngành về ghép gan. Sau đó tôi lại đi Pháp. Với vị trí trưởng kíp và là phẫu thuật viên chính ca Việt-Đức tạo cho tôi vị thế nhất định để yêu cầu tiếp cận những thành quả mới nhất của y học. Họ trả lời ngay đó là khoa học ghép tạng".
Có thể nói, khoa học ghép tạng được xếp vào thành quả vĩ đại của y khoa thế kỉ 20 sau việc tìm ra kháng sinh và AND. Thẳng thắn mà nói, nếu không có GS.TS Trần Đông A ghi dấu ấn mạnh mẽ cho thế giới khi cầm dao mổ tách đôi cặp song sinh Việt-Đức thì có thể sẽ rất lâu về sau, chúng ta mới tiếp cận thành tựu này của thế giới. Liên tiếp những hội nghị về ghép tạng ở trẻ sau đó mà ông tham dự đã củng cố thêm niềm tin ông sẽ thành công ghép tạng tại bệnh viện Nhi đồng 2.
Kỹ thuật ghép gan tại Nhi Đồng 2 không thua kém nước ngoài - Ảnh: Dantri.
Phép màu
Suốt 3 năm ở Pháp, miệt mài với công việc, hết trường này đến viện kia, GS.TS Trần Đông A tranh thủ mọi lúc mọi nơi để tìm hiểu cho tận tường. "Lúc đó kiến thức đã có, kinh nghiệm làm việc nhóm cũng thuộc lòng nhưng mới là điều kiện cần, chưa đủ nên chưa thể về”. Giáo sư nhớ lại.
Về lại TPHCM, ông liên tục đặt dấu hỏi mình phải bắt đầu từ đâu cho ghép thận và ghép gan khi đây là một ngành khoa học cao của thế giới, đòi hỏi kỹ thuật tối tân, máy móc hiện đại… Giờ đây, nhớ lại, ánh mắt ông sáng lên : "Phải nói rằng nhờ sự quan tâm của lãnh đạo TP, chúng tôi đã hình thành được các chương trình đào tạo chuyển ghép cơ quan, cách thức tổ chức 1 toán ghép thận ở trẻ em tại một nước đang phát triển như Việt Nam - báo cáo tại Paris năm 1994. Sau đó được chấp thuận của lãnh đạo TP, Sở Y tế, tôi đã kí hợp đồng đào tạo lâu dài với các giáo sư Bỉ đầu ngành về ghép gan ở Âu Châu, gửi sang Bỉ học từ phẫu thuật viên đến bác sĩ gây mê, điều dưỡng để theo dõi trước và sau ghép..."
Không uổng công như con ong cần mẫn mang cho đời vị ngọt. Có những đêm thức trắng để nghiên cứu chọn lựa cặp ghép, chọn gan, chọn thận cho phù hợp, năm 2004, ca ghép thận đầu tiên thành công, để giáo sư vững tin thực hiện luôn ca ghép gan đầu tiên trong năm 2005. Để đổi lại những gian nan vất vả trong hành trình gặt hái tinh hoa nơi biển lớn là những giá trị hết sức giản đơn, đó tiếng cười trong trẻo, hồn nhiên của những đứa trẻ. Đó là bệnh nhi của ông không còn bị vàng da hay những cơn đau quằn quại, cơ thể suy kiệt vì suy gan giai đoạn cuối.
Mười năm trôi qua, sẽ không có một Xuân Quý hồn nhiên tung tăng đến trường nếu không có một giáo sư với tính cách quyết liệt, tâm huyết luôn theo sát nền y học chứng cứ của thế giới. Mẹ Xuân Quý – bé được ghép gan đầu tiên - vẫn nhớ như in ngày đó, khi nhận được tin cháu được ghép tạng từ lá gan của mình, cả nhà lo lắng đến mất ăn mất ngủ vì là ca đầu tiên khả năng thành bại không thể nói trước. Nhưng chị tin vào sự hậu thuẫn của ngành y tế TP và tay nghề của bác sỹ Trần Đông A sẽ làm được điều đó: "Cảm xúc mình sau khi mổ trong tuần đầu theo dõi em bé ổn. Em bé chấp nhận gan của mẹ, hệ tiêu hóa ổn, tất cả mọi người vui khi thấy phân em bé màu vàng lại !".
GS Trần Đông A và hai trong số những trẻ đã ghép gan - Ảnh: Dantri.
Hơn 23 năm trôi qua, giáo sư Trần Ngọc Sinh – vị giáo sư đầu ngành đã 35 năm gắn bó với ngành thận – niệu, Trưởng bộ môn Tiết niệu Đại học Y dược vẫn nhớ như in ca ghép thận đầu tiên tại bệnh viện Chợ Rẫy mà ông là nhạc trưởng. Là bác sĩ ngành thận - niệu, hằng ngày chứng kiến bệnh nhân suy thận giai đoạn cuối vật vã với cơn đau, người đen xạm lại, điều này luôn thôi thúc ông tìm hiểu và thực hiện kỹ thuật này tại TPHCM càng sớm càng tốt.
Theo quy định của ngành, kĩ thuật cao mà chưa ai làm thì bắt buộc phải có chủ trương từ Bộ Y tế, huy động tập thể bệnh viện và con người vào cuộc. Trong giai đoạn ấy, giới khoa học có người ủng hộ nhưng không ít người chống đối. Giáo sư phải vượt qua rất nhiều trở ngại để đến đích an toàn. Năm 1990, ông khăn gói ra Hà Đông để mổ ghép trên mô hình thí điểm ở thú vật và sau đó, phụ việc trong nhóm ghép phía Bắc cùng với giáo sư người Đài Loan và giáo sư Tôn Thất Bách. Để 6 tháng sau, vào tháng 12/1992, giáo sư Trần Ngọc Sinh tự tin là phẫu thuật viên ghép ca thận đầu tiên ở bệnh viện Chợ Rẫy TPHCM. Theo ông, để có một ca ghép thận thành công, phải hội đủ rất nhiều yếu tố vì dù một sai sót nhỏ thôi, bệnh nhân sẽ tử vong: "Một bác sĩ mổ thường không thể mổ ghép thận mà phải được huấn luyện. Rồi gây mê cũng vậy, gây mê một người truyền nước biển vô thì phải có nước tiểu ra, còn người ghép thận truyền vô nhưng ra thì không có. Nếu truyền quá giới hạn thì người đó sẽ tràn ngập nước. Ngập nước trong phổi và sẽ chết ngay tại chỗ..".
Tuy kỹ thuật ghép thận ở người trưởng thành có mặt tại VN khá sớm nhưng thời đó vẫn chưa tạo được niềm tin ở nhiều bệnh nhân. Những gia đình có điều kiện vẫn chọn phẫu thuật ở nước ngoài.
Ngày ấy, đang du học bên Singapore, còn 1 năm nữa là hoàn tất chương trình nhưng trong dịp tình cờ, sinh viên Nguyễn Đình Hữu lúc ấy phát hiện mình bị suy thận giai đoạn cuối. Bệnh viện Singapore gửi giấy báo bệnh lý trong anh lúc đó chẳng khác nào giấy báo tử. Trên chuyến bay về lại Việt Nam, đầu óc anh Hữu vô cùng hoang mang, vô định không biết số phận mình sẽ ra sao. Thời đó, anh không tin với trình độ y khoa trong nước có thể thực hiện thành công các ca ghép tạng được. Những cơn đau triền miên, rồi bệnh phát sinh liên tục khiến anh như ngục ngã, kiệt quệ cả về thể xác lẫn tinh thần… Năm 2004 anh đồng ý thực hiện ghép thận do giáo sư Trần Ngọc Sinh đảm nhận và hạnh phúc vỡ òa sau lần 2 đã thành công. Ngôi nhà anh Hữu giờ đây tràn ngập tiếng cười của hai thiên thần nhỏ một trai một gái. Từ kinh nghiệm bản thân, anh Hữu chia sẻ: "Mừng lắm ! Trước đây có một bệnh nhân khoảng mười mấy tuổi, con cháu của một ngưởi bạn trong gia đình, nhiều người giới thiệu ra nước ngoài chữa trị nhưng mình khuyên thẳng thừng là nước ngoài chỉ hơn cơ sở vật chất thôi, nếu quyết định ghép nên thực hiện trong nước. Trình độ bác sĩ mình cao rất nhiều không thua kém gì người ta đâu".
Giờ đây, không đảm đương công tác quản lý, GS Trần Ngọc Sinh được gần bệnh nhân hơn, tham gia nhiều ca mổ hơn và gắn bó với việc giảng dạy, đào tạo thế hệ sinh viên ngành Y. Trong câu chuyện dài trên bàn cà phê sáng, Giáo sư Trần Ngọc Sinh không nguôi ấp ủ những dự tính làm sao có thể nhân rộng và triển khai kĩ thuật ghép ở khắp nơi, chữa chạy cho bệnh nhân tại chỗ thay vì vất vả khăn gói lên tuyến trên, nằm vật vạ vì quá tải.
GS.TS.BS Trần Ngọc Sinh - Ảnh: Petrotimes.
Nhấp ngụm cà phê, ánh mắt giáo sư tràn đầy niềm tin, ông nghĩ không có chuyện gì không làm được nếu tất cả cùng chung tay : "Đó là tiến bộ rất đáng mừng bởi vì tôi có tâm nguyện làm được chuyện này ở trong nước. 23 năm trước đây, chỉ mình tôi cộc cạch với máy thận nhân tạo mà chúng tôi lắp ráp từ 4, 5 máy khác. Lúc đó kiến thức hạn hẹp, kết quả giới hạn nhưng đến nay nó đã rộng khắp. Thận nhân tạo – đó là tiền đề cho ghép thận. Khi mình muốn là có thể làm được, nhất là khi đó là nhu cầu của người bệnh".
40 năm nhìn lại, đã có những ca mổ kỳ diệu, làm thay đổi số phận vô số bênh nhân vốn gần như tuyệt vọng. Có thể cảm nhận ngay điều đó khi nhìn thấy bé Xuân Quý từ một bệnh nhi suy gan, vàng da khi mới chỉ vài tháng tuổi nay đã trở thành một cô bé học sinh trung học vui tươi, nhí nhảnh. Một anh sinh viên bế tắc, tuyệt vọng cận kề cái chết ngày ấy, nay sống hạnh phúc cùng hai đứa con kháu khỉnh và người vợ thân thương. Hạnh phúc nào hơn thế. Phép màu không ở đâu xa mà chính từ bàn tay tài hoa của đội ngũ y bác sĩ đầy tâm huyết, chấp nhận dấn thân mở đường cho ngành y phát triển.