Nâng tầm vị thế các ngành khoa học cơ bản

VOH - Các ngành khoa học cơ bản là nền tảng, xương sống cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Cần có những chính sách khuyến khích, thu hút thí sinh ở tầm chính sách vĩ mô.

Nhiều năm qua, kết quả tuyển sinh giữa các nhóm ngành đào tạo cho thấy có sự chênh lệch lớn giữa các khối ngành. Một số khối ngành khoa học cơ bản tiếp tục gặp khó khăn trong tuyển sinh, một số lĩnh vực có nhu cầu nhưng thiếu người học.

Xu hướng chung hiện nay, thí sinh vẫn ưu tiên lựa chọn những ngành học thuộc khối ngành kinh tế, ứng dụng… Sự thiếu hụt người học có nguy cơ dẫn tới thiếu hụt nguồn nhân lực khoa học công nghệ trình độ cao, chất lượng cao cho đất nước.

Tuyển sinh khó, trường đại học loay hoay tìm cách thu hút người học

Trên thực tế, tình hình tuyển sinh các ngành thuộc lĩnh vực khoa học cơ bản, khoa học sự sống, khối ngành nông – lâm – ngư trong nhiều năm vẫn có sự mất cân đối trong bức tranh tuyển sinh chung của giáo dục đại học. 

Khi nhắc đến khối ngành khoa học sự sống, đó là những ngành quyết định đến động lực phát triển của xã hội trong tương lai. Chúng ta cần chuẩn bị nguồn nhân lực không chỉ trong hiện tại mà còn cho nhiều năm sau, tuy nhiên thực tế đầu vào của các ngành này lại không khiến thí sinh mặn mà.

Tiến sĩ Võ Thanh Hải, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Duy Tân chia sẻ, những khối ngành khoa học kỹ thuật, khoa học sự sống, khối ngành nghệ thuật tại trường đều khó thu hút thí sinh, dù nhà trường đã cố gắng áp dụng nhiều giải pháp.

Riêng với những ngành khó tuyển, trường áp dụng chính sách giảm học phí so với các ngành khác 30% học phí toàn khoá học. Trường cũng có học bổng cho các em để duy trì số sinh viên theo học những ngành học quan trọng, TS Hải nói thêm.

Để đào tạo nguồn nhân lực này làm huyết mạch cho đất nước, Tiến sĩ Võ Thanh Hải cho rằng cần phải có giải pháp tổng thể, dài hơi như cơ chế nhà nước đặt hàng đào tạo sinh viên những ngành này hoặc có cơ chế đặc thù giống như đối với ngành đào tạo giáo viên.

Trong bối cảnh khó khăn như vậy, cùng với nguồn lực hạn hẹp của các trường, nhiều trường vẫn loay hoay tìm cách thu hút và giữ chân người học vào những ngành khó tuyển này. Trước mắt, vẫn là chính sách học bổng mang tính chất khuyến khích, động viên thí sinh.

Nâng tầm vị thế các ngành khoa học cơ bản 1
Tư vấn tuyển sinh về các chính sách đào tạo chuyên ngành Đại học - Ảnh minh họa

Tiến sĩ Nguyễn Trung Nhân, Trưởng phòng Đào tạo Trường Đại học Công nghiệp TPHCM cho biết, hiện nay, có 3 ngành khó tuyển nhất: ngành xây dựng công trình giao thông, ngành đào tạo liên quan về hệ thống lạnh và điều hoà không khí, nhóm ngành liên quan đến môi trường, phát triển bền vững.

Trường xét học bổng riêng cho từng ngành, tính trên phần trăm số thí sinh từng ngành. Như vậy, đối với những ngành khó tuyển, quy mô đào tạo ít, thì cơ hội sinh viên nhận học bổng sẽ rất nhiều nên rất có lợi cho các em học ngành này, TS nhân chia sẻ.

Trong xu hướng đào tạo liên ngành, xuyên ngành, những ngành học lai giữa khoa học cơ bản và ứng dụng đã ra đời như một giải pháp giữ chân và đáp ứng nhu cầu người học.

Thạc sĩ Phạm Thái Sơn, Giám đốc Trung tâm Tuyển sinh và Truyền thông - Trường Đại học Công Thương TPHCM cho hay, trường có một số ngành khoa học cơ bản, khoa học sự sống nhưng người học không mấy mặn mà. Đơn cử, ngành Quản lý năng lượng, Công nghệ vật liệu đã “xóa sổ” từ năm 2021 do tuyển sinh năm nào cũng chỉ lèo tèo 20-40 thí sinh đăng ký.

Một số ngành khác như ngành Kỹ thuật môi trường và Công nghệ chế biến thủy sản, 3 năm trở lại đây đều có xu hướng giảm. Đứng trước những thách thức như vậy, trường phải chủ động mọi cách, đó là hướng đến việc liên ngành, ngành học mới có sự kết hợp với ngành học khó tuyển.

Thạc sĩ Phạm Thái Sơn dẫn chứng: “Như ở Khoa Công nghệ thực phẩm, mở ra ngành mới là ngành Quản trị kinh doanh - Thực phẩm, “lai” giữa quản trị kinh doanh và thực phẩm, sinh viên ngành Quản trị kinh doanh có thể học ngành Thực phẩm và ngược lại, tăng cơ hội việc làm khi học ngành này”.

Các năm qua, khối ngành nông - lâm - ngư nằm trong bốn nhóm ngành tuyển sinh khó khăn. Trong khi nhu cầu về nguồn nhân lực các nhóm ngành này rất lớn, từ đó tạo ra mâu thuẫn trong cung - cầu đào tạo các nhóm ngành này.

Tiến sĩ Trần Đình Lý, Phó hiệu trưởng Trường ĐH Nông Lâm TPHCM cho hay, nhóm ngành năng lực lõi của trường là nhóm ngành nông - lâm – ngư, điểm chuẩn các ngành học nhóm này cũng ở top cao trong hệ thống đào tạo cùng nhóm ngành này ở các trường.

Nâng tầm vị thế các ngành khoa học cơ bản 2
Tiến sĩ Trần Đình Lý, Phó hiệu trưởng Trường ĐH Nông Lâm TPHCM - Ảnh: ĐHNL

Tiến sĩ Trần Đình Lý cho biết thêm: “Trường có 3 top ngành. Nhóm ngành hot thu hút sự quan tâm của thí sinh, có điểm chuẩn từ 25-26 điểm, thậm chí trên 27 điểm. Nhóm thứ 2 là những ngành có điểm chuẩn từ 22-25 điểm; và nhóm thứ 3 điểm chuẩn dưới 22 điểm. Ngành có điểm chuẩn thấp, tuyển sinh khó khăn cũng chủ yếu là rơi vào nhóm ngành lâm nghiệp: Lâm sinh, Lâm học, Quản lý tài nguyên rừng”.

Gắn đào tạo khoa học cơ bản với ứng dụng thực tiễn

Những nhóm ngành khoa học cơ bản, khoa học sự sống, khối nông – lâm – ngư trên thực tế, đầu ra việc làm khá tốt, vị trí và mức lương không thua kém các khối ngành kinh tế, ứng dụng.

Tiến sĩ Trần Đình Lý cho hay: “Có nhiều tập đoàn sản xuất giấy, chế biến lâm sản hợp tác với trường, họ sẽ tài trợ toàn bộ học phí cho những sinh viên theo học ngành này. Họ cũng đầu tư trang thiết bị, đầu tư cho quá trình nghiên cứu đào tạo của người học. Họ đang thực sự có nhu cầu nhưng tuyển người không ra, dù mức lương lên đến 20 triệu. Vậy mà vẫn thiếu người học.

Chia sẻ về nhu cầu nguồn nhân lực trong lĩnh vực về Toán, Phó Giáo sư-Tiến sĩ Nguyễn Thanh Bình, Trưởng bộ môn Ứng dụng Tin học, khoa Toán-Tin học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (Đại học Quốc gia TPHCM) cho hay, đầu vào đa phần là những học sinh xuất sắc, đạt giải cao ở các cuộc thi toán học, điểm chung là có sự đam mê muốn tìm hiểu sâu thêm về toán học. Đây cũng là nền tảng vững chắc để các bạn tốt nghiệp và tiếp tục giành học bổng thạc sĩ, tiến sĩ ở nước ngoài.

Về cơ hội việc làm, Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thanh Bình phân tích: “Các bạn học về toán và được học thêm những kiến thức liên quan để có thể đưa ra những mô hình bài toán để giải quyết, viết chương trình, viết code, vì các bạn đã có tư duy về Toán rất tốt, có kiến thức về lập trình. Khi ra trường có thể làm những công việc tại các công ty đòi hỏi nhân sự có kiến thức về Toán như bảo hiểm, hoặc công ty kỹ thuật, khoa học máy tính, tin học….Thực tế, sinh viên từ khoa Toán - Tin học ra trường làm những công việc rất tốt".

Không chỉ vậy, mà ngay trong quá trình học đại học, người học cũng đã được tiếp cận và tham gia các nhóm nghiên cứu khoa học, cùng giảng viên tham gia các đề tài khoa học cơ bản mang tính ứng dụng và hướng đến cộng đồng. Thế nên, các ngành khoa học cơ bản đâu có quá xa vời, mà lại trở nên gần gũi hơn với cộng động, xã hội.

Với sự nỗ lực của hơn 300 sinh viên chuyên ngành toán tin học, cùng với những thành viên cốt lõi của nhóm nghiên cứu SL-STEAM, nhóm này đã nghiên cứu thành công chế bản in sách giáo khoa hình và chữ nổi Braille, một công trình nhân văn dành cho học sinh khiếm thị. Đó là minh chứng rõ nét cho quá trình đổi mới giảng dạy, nghiên cứu.

Với Phó Giáo sư-Tiến sĩ Phạm Thị Thu Hiền, Giảng viên Khoa Kỹ thuật y sinh Trường Đại học Quốc tế (Đại học Quốc gia TPHCM), những nền tảng kiến thức cơ bản về cơ khí, về quang học đã góp phần vào thành công của đề tài nghiên cứu “Áp dụng trí thông minh nhân tạo kết hợp hệ thống phân cực ánh sáng và hình ảnh mô bệnh học trong chẩn đoán ung thư vú” mà nhóm nghiên cứu thực hiện. Trong vòng hai năm nghiên cứu, công trình này đã mang đến nhiều tiềm năng trong nghiên cứu y sinh, đặc biệt là phát hiện ung thư trong tương lai.

Nâng tầm vị thế các ngành khoa học cơ bản 3
TS Phạm Thị Thu Hiền (thứ hai từ phải sang) hiện đang nghiên cứu, giảng dạy tại khoa Kỹ thuật y sinh, Đại học Quốc tế, Đại học Quốc gia TPHCM - Ảnh: ĐHQT
Có thể khẳng định rằng, khoa học cơ bản chính là nền tảng cho quá trình nghiên cứu, phát triển bền vững. Xuất phát điểm là kỹ sư, thạc sĩ ngành cơ khí, chuyên ngành Cơ điện tử; và sau đó là tiến sĩ ngành Cơ khí, chuyên ngành Quang học tại Đài Loan, cơ duyên đến khi nhà khoa học trẻ Phạm Thị Thu Hiền có dịp gặp gỡ Giáo sư Võ Văn Tới khi ông có bài chia sẻ về những hướng nghiên cứu trong ngành y. Từ đó, Phó Giáo sư Tiến sĩ Thu Hiền bắt đầu gắn bó với Khoa Kỹ thuật y sinh của Trường Đại học Quốc tế, và bắt tay nghiên cứu những đề tài trong lĩnh vực y khoa. Đến nay, đã gần 10 năm.

Khởi nghiệp từ khoa học cơ bản: Hành trình 10 năm nghiên cứu “vật liệu của tương lai”

Graphene, một loại siêu vật liệu được ví “cứng hơn thép và nhẹ hơn giấy”, là vật liệu vượt xa tất cả vật liệu nano hiện nay, chắc chắn không thể thiếu trong việc nghiên cứu và phát triển các thiết bị kỹ thuật số như chip vi xử lý và sản phẩm phụ trợ. 

Tại Việt Nam, sau gần 10 năm nghiên cứu, nhóm các nhà khoa học, khởi nghiệp trẻ của Công ty cổ phần Graphene Life đã trở thành đơn vị tiên phong sản xuất và nghiên cứu ứng dụng vật liệu Graphene tại Việt Nam.

Khác với hai nhà Vật lý đã được trao giải Nobel khi khám phá ra chất liệu graphene từ than chì, nhóm đã khám phá thành công phương pháp sản xuất graphene thân thiện với môi trường từ mỡ động vật tinh chế trên quy mô lớn với công suất 1 tấn/năm, với chi phí thấp và chất lượng ổn định, từ đó thúc đẩy quá trình ứng dụng và thương mại, góp phần định hình ngành công nghệ sản xuất chế tạo trong tương lai.

Hành trình đam mê nghiên cứu vật liệu mới cho tương lai được nung nấu, ấp ủ từ những ngày còn lăn lộn trong phòng thí nghiệm nơi giảng đường đại học. Gần 10 năm gian nan nghiên cứu đã đem về trái ngọt cho những nhà khoa học trẻ miệt mài sáng tạo. 

Theo anh Lê Minh Tuấn, Giám đốc công ty Graphene Life - người tốt nghiệp ở những khoá đầu tiên đào tạo về lĩnh vực công nghệ vật liệu mới của Việt Nam, đó là khoa Khoa học và Công nghệ Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (Đại học Quốc gia TPHCM) nghiên cứu và sản phẩm của công ty đã đăng ký độc quyền sáng chế ở Hàn Quốc và Việt Nam.

Nâng tầm vị thế các ngành khoa học cơ bản 4
Đại diện Công ty cổ phần Graphene Life giới thiệu máy kiểm tra độ dẻo của vật liệu graphene tại Hàn Quốc - Ảnh: SGGP

Theo anh Ngô Việt Dũng, phụ trách Phát triển Kinh doanh Graphene Life: Trên thế giới hiện nay, graphene được đánh giá là vật liệu của tương lai, có thể thay thế cho những vật liệu mang tính chất độc hại chomôi trường như nhựa, silicon... Graphene có khả năng thay thế và gia tăng được những tính chất vật liệu, ví dụ như khả năng ứng dụng trong các tàu vũ trụ; hoặc như hiện nay chúng tôi đã thành công trong việc ứng dụng phủ graphene lên áo giáp của quân đội; ứng dụng trong xây dựng...

Định hướng của Graphene Life là tạo ra những sản phẩm ứng dụng trực tiếp trong ngành xây dựng. Chúng tôi tạo ra sản phẩm phụ gia bổ sung vào bê-tông có chức năng là làm tăng độ liên kết của xi măng với các vật liệu khác, tiết kiệm chi phí sản xuất 20 đến 30%.

Sau 10 năm nghiên cứu mới ra sản phẩm hoàn thiện, có thể cạnh tranh được trong thị trường quốc tế. Graphene Life đang hướng đến phát triển ứng dụng và thương mại hoá các sản phẩm từ những công trình nghiên cứu từ trường đại học, viện nghiên cứu….có khả năng tạo ra những giá trị đột phá trên thị trường, nâng tầm vị thế công trình nghiên cứu của Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Nhớ về quãng đường theo học ngành học khoa học cơ bản, Lê Minh Tuấn chia sẻ: "Ngành khoa học vật liệu ngay từ đầu là sự lựa chọn của mình và đến nay mình đã đi đúng hướng. Con đường này cũng rất khó khăn. Trường học dạy cho mình nhiều thứ, kiến thức khoa học cơ bản giúp mình có được một tư duy, khi mình thực hiện dự án mình tập trung một mảng chính là nghiên cứu phát triển vật liệu nano".

Với Ngô Việt Dũng, cựu sinh viên chuyên ngành hoá - thực phẩm tại Trường Đại học Bách Khoa (Đại học Quốc gia TPHCM), sau 6 năm làm việc trong lĩnh vực xây dựng phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp, mới nhận ra mình có rất nhiều sự thân thuộc với lĩnh vực khoa học cơ bản, nhất là liên quan đến ngành hoá.

Graphene là nơi cho mình cảm giác thân thuộc như vậy, bởi vì bao nhiêu kiến thức thời đại học ùa về, cho mình thấy những kiến thức khoa học cơ bản đâu có xa vời mà từ nền tảng kiến thức này chúng ta có khả năng phát triển và tạo ra những đột phá mới không thua kém các kết quả nghiên cứu của thế giới.

Bình luận