Năm 2010, Chính phủ lần đầu tiên trình Quốc hội báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án đường sắt cao tốc. Tuy nhiên, thời điểm đó, quy mô nền kinh tế còn thấp (GDP đạt 147 tỉ USD) và nợ công ở mức cao, lên tới 56,6% GDP, nên chưa được thông qua.
Bộ GTVT đã tái khởi động việc nghiên cứu dự án này dưới tên gọi “đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam”. Lần này, Bộ GTVT thực hiện một cách khá kỹ lưỡng và toàn diện, tổng hợp kinh nghiệm phát triển đường sắt tốc độ cao từ các nước trên thế giới.
Theo Bộ GTVT, Việt Nam có hành lang kinh tế Bắc – Nam kết nối 3/6 vùng kinh tế của cả nước, khoảng 54% dân số đô thị, và 67% khu kinh tế biển, đóng góp 51% GDP của quốc gia. Vì vậy, việc xây dựng đường sắt tốc độ cao sẽ rút ngắn khoảng cách giữa các tỉnh, phân bổ lại đô thị dân cư và mở ra không gian phát triển cho các tỉnh.
Việc triển khai dự án sẽ tạo ra thị trường xây dựng với giá trị 33,5 tỉ USD. Tính cả việc nâng cấp hệ thống đường sắt hiện hành và phát triển đường sắt đô thị, tổng giá trị thị trường xây dựng sẽ đạt khoảng 75,6 tỉ USD, cùng với giá trị của phương tiện và thiết bị khoảng 34,1 tỉ USD.
Bộ GTVT cho rằng “nghiên cứu cho thấy nếu được chuyển giao công nghệ và có chính sách thích hợp, Việt Nam có thể tự chủ hoàn toàn”.
“Vì vậy, đầu tư đường sắt tốc độ cao là tiền đề để phát triển công nghiệp đường sắt, công nghiệp hỗ trợ, góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, Bộ GTVT cho biết.
Về tốc độ, trước năm 2010, hầu hết các tàu cao tốc hoạt động với vận tốc 300km/h, nhưng hiện nay, chủ yếu các dự án đều thiết kế tốc độ từ 300km/h trở lên. Đáng chú ý, gần đây, một số dự án đã lựa chọn tốc độ thiết kế trên 350 km/h.
Theo các nước hiện, các tuyến đường sắt tốc độ cao thường được thiết kế với tốc độ 350km/h trở lên do tính hiệu quả cao. Tốc độ chạy tàu này cũng có khả năng thu hút khách đi tàu tốt hơn so với tốc độ 250km/h.
“Cụ thể, qua nghiên cứu trên chặng Hà Nội – TP.HCM, tốc độ 350 km/h có khả năng thu hút khách cao hơn khoảng 12,5% so với tốc độ 250 km/h.” Bộ GTVT dẫn chứng.
Về chi phí, Bộ GTVT khẳng định tổng mức đầu tư cho dự án với tốc độ 350km/h cao hơn khoảng 8-9% so với dự án có tốc độ chạy tàu 250km/h. Tuy nhiên, việc nâng cấp một dự án tốc độ 250km/h lên 350km/h sẽ gặp nhiều khó khăn và không hiệu quả.
Dự án hoàn thành vào năm 2045
Trên cơ sở đó, Bộ GTVT đề xuất phương án đầu tư tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam với vận tốc thiết kế 350km/h, đường đôi khổ 1.435m, điện khí hoá.
Tổng mức đầu tư dự án khoảng 67,34 tỉ USD, tương đương suất đầu tư 43,7 triệu USD/km. Đây là mức phí trung bình so với các quốc gia đầu tư đường sắt tốc độ cao ở thời điểm hiện tại.
Về phương án đầu tư, Bộ GTVT cho biết đã phân tích hai phương án và lựa chọn đầu tư toàn tuyến để cơ bản hoàn thành trong năm 2035. Cụ thể, đoạn Hà Nội – Vinh và Nha Trang – TP.HCM khởi công năm 2027, đoạn Vinh – Nha Trang khởi công năm 2028. Đây được xem là thay đổi lớn của cơ quan nghiên cứu, bởi các đề xuất trước đều đặt mục tiêu hoàn thành dự án vào năm 2045.
Vốn đầu tư dự án được Bộ GTVT đề xuất lấy từ ngân sách Nhà nước, gồm vốn trung ương và góp của địa phương, vốn huy động chi phí thấp và ít ràng buộc. Trong quá trình xây dựng và vận hành, sẽ kêu gọi doanh nghiệp tham gia đầu tư các khu dịch vụ, thương mại tại các ga, đầu tư thêm phương tiện để khai thác khi có nhu cầu.
Theo đơn vị chủ trì nghiên cứu, việc bố trí ngân sách trong 12 năm, mỗi năm bình quân 5,7 tỉ USD thì đến năm 2030 nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia thấp hơn mức cho phép (50%).
Thời gian trình Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư sẽ được thực hiện vào cuối năm nay.