Doanh nghiệp Việt còn mơ hồ về chuyển đổi xanh
Châu Âu và Mỹ là hai thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam nhưng cũng có nhiều quy định nghiêm ngặt về phát triển bền vững. EU áp dụng Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM), Quy định chống phá rừng (EUDR), cùng các yêu cầu về chuỗi cung ứng và kinh tế tuần hoàn. Mỹ ưu tiên thương mại xanh, yêu cầu sản phẩm thân thiện với môi trường.
Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp Việt vẫn mơ hồ về chuyển đổi xanh. Theo VCCI, hơn 60% doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa hiểu rõ khái niệm này, trong khi các doanh nghiệp lớn cũng gặp khó khăn do thiếu kiến thức, vốn và nhân lực. 65% doanh nghiệp gặp trở ngại về tài chính, chỉ 12% doanh nghiệp tại TP.HCM có đội ngũ chuyên môn về ESG.
Một số doanh nghiệp đã chủ động thích ứng, như Vinamilk đặt mục tiêu Net Zero vào 2050, triển khai trang trại và nhà máy trung hòa carbon. NS BlueScope Việt Nam cho thấy chuyển đổi xanh không nhất thiết cần vốn lớn mà có thể bắt đầu từ cải tiến quy trình sản xuất.
Theo chuyên gia, chuyển đổi xanh cần tập trung vào năng lượng, công nghiệp - nông nghiệp và giao thông, kết hợp xu hướng chuyển đổi số, kinh tế tuần hoàn, công nghệ xanh, tài chính xanh và nhân lực xanh để tạo nền kinh tế bền vững.
Triển vọng tài chính bền vững ở Đông Nam Á vẫn tốt
Dữ liệu từ Sở Giao dịch Chứng khoán London (LSEG) cho thấy tài chính bền vững tại Đông Nam Á tăng mạnh trong năm 2024. Lượng phát hành trái phiếu ESG đạt 20,1 tỷ USD, tăng 46,1% so với năm 2023, trong khi các khoản vay ESG tăng 27,2% lên 42,9 tỷ USD. Singapore và Philippines dẫn đầu nhờ nhu cầu vốn cho các dự án tái tạo.
Dù Mỹ thay đổi chính sách dưới thời Tổng thống Donald Trump, tác động lên tài chính bền vững tại ASEAN được đánh giá là hạn chế. Khu vực này vẫn đẩy mạnh kinh tế xanh, với Indonesia hướng đến trung tâm xe điện khu vực.
Các chuyên gia dự báo trái phiếu ESG tiếp tục tăng trưởng, với doanh nghiệp quan tâm đến trái phiếu xanh lam (hỗ trợ đại dương), trái phiếu cam (bình đẳng giới) và tài chính bền vững để đáp ứng yêu cầu từ khách hàng, nhà đầu tư và cơ quan quản lý.
Tín chỉ carbon: Điều kiện ngặt nghèo nhưng liệu có hiệu quả?
Tín chỉ carbon là kết quả của các dự án giảm phát thải khí nhà kính, được đo lường, xác minh và giao dịch trên thị trường. Để đảm bảo tính minh bạch, mỗi tín chỉ carbon phải được hai tổ chức độc lập công nhận: một tổ chức tiêu chuẩn carbon quốc tế và một tổ chức thẩm định độc lập.
Các dự án tạo tín chỉ carbon phải chứng minh rằng doanh thu từ bán tín chỉ là động lực tài chính duy nhất, hoạt động ngoài phạm vi pháp lý bắt buộc và không phải là thực tiễn phổ biến trong ngành. Tuy nhiên, do cơ chế này chủ yếu hoạt động trên cơ sở tự nguyện, nó vẫn gây tranh cãi về hiệu quả thực sự trong việc cắt giảm phát thải khí nhà kính.
Thúc đẩy huy động tài chính carbon cho điện khí hóa giao thông
Việt Nam đang đẩy mạnh điện khí hóa giao thông để giảm phát thải khí nhà kính, với mục tiêu xe buýt điện chiếm 30% vào năm 2030. Tuy nhiên, chi phí đầu tư lớn là rào cản chính, đòi hỏi phải tận dụng cơ chế tài chính khí hậu và thị trường carbon.
Bài học từ Thái Lan cho thấy bán tín chỉ carbon từ xe buýt điện có thể tạo nguồn thu đáng kể. TP HCM có thể thu về khoảng 55,42 triệu USD/năm từ tín chỉ carbon, giúp bù đắp chi phí đầu tư.
Để thực hiện, cần khung pháp lý rõ ràng, đăng ký tín chỉ carbon theo tiêu chuẩn quốc tế và hợp tác với các tổ chức tài chính khí hậu. Các mô hình hợp tác công – tư (PPP) cũng cần được thúc đẩy để hỗ trợ doanh nghiệp tham gia thị trường carbon, đảm bảo quá trình chuyển đổi bền vững.
Phát triển các ngành kinh tế biển mới theo hướng xanh, tuần hoàn, carbon thấp
Ngày 27/2/2025, Chính phủ ban hành Nghị quyết 37/NQ-CP về Kế hoạch thực hiện Quy hoạch không gian biển quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050, cụ thể hóa các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đã được Quốc hội phê duyệt.
Kế hoạch đặt trọng tâm vào hoàn thiện thể chế, chính sách quản lý biển; phát triển cơ sở hạ tầng ven biển, cảng biển, giao thông và logistics; thúc đẩy kinh tế biển, năng lượng tái tạo và du lịch xanh; bảo tồn di sản văn hóa biển; chuyển đổi số và giám sát tài nguyên biển. Đồng thời, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, phát triển nhân lực biển và hợp tác quốc tế, hướng tới phát triển bền vững kinh tế biển, đảm bảo quốc phòng, an ninh biển đảo.