Giá tiêu cao nhất ở ngưỡng 72.500 đồng/kg được ghi nhận ở Bà Rịa - Vũng Tàu, thấp nhất 69.500 đồng/kg tại Gia Lai.
Hôm nay giá tiêu tại Đắk Nông (Gia Nghĩa) và Đắk Lắk (Ea H'leo) giảm 500 đồng/kg , dao động trong mức 70.500 đồng/kg.
Giá tiêu tại Gia Lai giảm 500 đồng/kg, dao động ở ngưỡng 69.500 đồng/kg.
Giá tiêu tại các tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu giảm 500 đồng/kg, dao động trong ngưỡng 72.500 đồng/kg.
Giá tiêu tại Bình Phước giảm 500 đồng/kg , dao động ở ngưỡng 71.500 đồng/kg.
Giá tiêu tại Đồng Nai giảm 500 đồng/kg, dao động ở ngưỡng 70.000 đồng/kg.
Tỉnh |
Giá thu mua |
Thay đổi |
ĐẮK LẮK |
|
|
— Ea H'leo |
70.500 |
-500 |
GIA LAI |
|
|
— Chư Sê |
69.500 |
-500 |
ĐẮK NÔNG |
|
|
— Gia Nghĩa |
70.500 |
-500 |
BÀ RỊA - VŨNG TÀU |
|
|
— Tiêu |
72.500 |
-500 |
BÌNH PHƯỚC |
|
|
— Tiêu |
71.500 |
-500 |
ĐỒNG NAI |
|
|
— Tiêu |
70.000 |
-500 |
Giá tiêu trong nước hôm nay đã chịu sức ép từ đồng USD quá mạnh và quay đầu giảm 500 đồng/kg so với hôm qua.
Theo báo cáo dữ liệu sơ bộ của Tổng Cục Hải Quan, xuất khẩu trong nửa đầu tháng 9/2023 đạt 7.215 tấn tiêu các loại, thu về 26,43 triệu USD, đưa xuất khẩu 8,5 tháng đầu năm lên đạt 195.274 tấn, tăng 17,16% về lượng và giảm 12,97% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái. Giá tiêu xuất khẩu bình quân trong kỳ đạt 3.663 USD/tấn, giảm 2,09% so với giá xuất khẩu bình quân của tháng 8/2023.
Theo Hiệp hội Hạt tiêu Việt Nam (VPPA), hiện lượng tồn kho hạt tiêu thực tế trong dân không còn nhiều, phần lớn chỉ còn trong đại lý và một số nhà đầu cơ. Một số doanh nghiệp chế biến cũng đã có đủ lượng hàng để chế biến cuối năm nên vẫn chưa thực sự cần phải mua vào thời điểm này.
Cục Xuất nhập khẩu dự báo, giá hạt tiêu thế giới tiếp tục giảm trong ngắn hạn bất chấp số liệu công bố cho thấy sản lượng thu hoạch từ các nước sản xuất giảm. Hiện Việt Nam đã không còn sản lượng hạt tiêu của vụ mùa năm 2023.
Dự báo xuất khẩu hạt tiêu sẽ duy trì ở mức thấp do nguồn cung nội địa không còn dồi dào, nhu cầu tiêu thụ tại thị trường Hoa Kỳ và EU chưa thực sự khởi sắc.
Hiện lượng hạt tiêu xuất khẩu có nguồn gốc xuất xứ từ Việt Nam đã hết. Trong các tháng cuối năm nay, doanh nghiệp sẽ xuất khẩu từ lượng hàng nhập khẩu và tồn kho từ trước.
Ước tính tổng lượng hàng tồn và nhập khẩu đạt khoảng 80.000 tấn, trong khi tiêu thụ nội địa khoảng 10.000 tấn và lượng hàng tồn chuyển qua năm sau khoảng 30.000 tấn, thì sẽ còn lại khoảng 50.000 tấn để xuất khẩu cho các tháng cuối năm nay.
Giá tiêu thế giới
Khảo sát phiên giao dịch ngày 26/9, giá tiêu đen Lampung (Indonesia) chốt tại 4.304 USD/tấn, giảm 0,12%; giá tiêu đen Brazil ASTA 570 ở mức 3.350 USD/tấn; giá tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA giữ mức 4.900 USD/tấn.
Giá tiêu trắng Muntok 6.370 USD/tấn, giảm 0,09%; giá tiêu trắng Malaysia ASTA vẫn ở 7.300 USD/tấn.
Giá tiêu đen Việt Nam giao dịch ở 3.500 USD/tấn với loại 500 g/l, loại 550 g/l mức 3.600 USD/tấn; giá tiêu trắng ở mức 5.100 USD/tấn.
Giá tiêu thế giới hôm nay quay đầu giảm nhẹ tại Indonesia so với hôm qua.
Tình hình nhập khẩu tăng đã giữ giá tiêu đen ổn định trên thị trường Ấn Độ trong vài ngày qua, từ đó ảnh hưởng đến nhu cầu tiêu thụ. Dự kiến sản lượng hạt tiêu năm 2024 của thị trường Ấn Độ có thể đạt khoảng 50.000 tấn, sẽ thúc đẩy nhập khẩu hạt tiêu vào quốc gia này nhiều hơn.
Theo Hiệp hội Hạt tiêu quốc tế (IPC), sản lượng thu hoạch từ các nước sản xuất như Brazil, Indonesia và Ấn Độ đều dự báo giảm so với năm 2022.
Kinh tế thế giới khó khăn, lạm phát vẫn duy trì ở mức cao, người dân thắt chặt chi tiêu là nguyên nhân khiến các nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ, EU giảm nhập khẩu hạt tiêu.